Thứ Ba, 27 tháng 3, 2007

Lễ quốc táng nhà cách mạng Phan Chu Trinh (4-4-1926) tại nghĩa trang Hội tương tế Gò Công

Lễ quốc táng nhà cách mạng Phan Chu Trinh (4-4-1926) Quá lao tâm, lao lực nên bịnh tình trầm trọng thêm, đến ngày 24-3-1926, Phan Chu Trinh trút hơi thở cuối cùng tại khách sạn số 54 đường Pellerin, Sài gòn. Tin buồn lan truyền nhanh chóng khắp nơi trong nước. Đồng bào các giới đều bày tỏ lòng tiếc thương một người ái quốc, suốt đời tận tuỵ hiến thân cho nước. Vì thế, một uỷ ban làm lễ quốc táng được lập ra, quy tụ những thành phần trí thức, thân hào nhân sĩ lúc bấy giờ, những nhà cách mạng lão thành, những thanh niên, học sinh tham dự.

Tang lễ của Phan Chu Trinh chính là một cuộc biểu dương sức mạnh, biểu thị lòng ái quốc và là một sự thách thức đối với chính sách khủng bố, đàn áp của thực dân. Có thể nói rằng “Lễ quốc táng của Phan Chu Trinh” là một cuộc biểu tình vĩ đại, trầm lặng trên đường phố, phô trương ý chí quật khởi của dân tộc Việt nam. Thay mặt toàn dân, uỷ ban tổ chức tang lễ tuyên bố: “Nhà cách mạng Phan Chu Trinh suốt đời tranh đấu cho chính nghĩa quốc gia, cho áp bức của dân tộc, nay người tạ thế, thì toàn dân Việt nam phải có bổn phận làm tang lễ linh đình để mọi người công dân tham dự, đền đáp một phần công ơn của người đối với quốc gia dân tộc”.
Thành phần uỷ ban tổ chức Lễ quốc táng gồm:
- Chủ tịch: ông Bùi Quang Chiêu, đảng Lập hiến, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
- Các uỷ viên:
- Nguyễn Văn Thinh, bác sĩ Y Khoa tại Sài gòn.
- Trần Văn Đôn, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, (thân phụ Tướng Đôn).
- Lê Quang Liêm, Đốc Phủ sứ.
- Nguyễn Phan Long, Hội đồng quản hại Nam Kỳ.
- Trương Văn Bền, Hội đồng quản hại Nam Kỳ - Nguyễn Tấn Được, Hội đồng quản hại Nam Kỳ - Võ Công Tôn, Hội đồng quản hại Nam Kỳ - Nguyễn Tấn Văn, Hội đồng thành phố Sài gòn.
- Trương Văn Công, Hội đồng thành phố Chợ Lớn.
- Nguyễn Kim Đính, Chủ nhiệm Đông Pháp thời báo.
- Trần Huy Liệu, chủ bút Đông Pháp thời báo.
- Nguyễn Huỳnh Điểu, hội viên Hội đồng Canh Nông Trà Vinh.
- Nguyễn Dư Khánh, tự Khánh Ký, nhiếp ảnh gia Sài gòn.
- Huỳnh Đình Điển, nhân sĩ Sài gòn.


Phan Khôi viết lời hiệu triệu quốc dân về cái chết của nhà cách mạng Phan Chu Trinh. Hoạ sĩ Đặng Ký lo tìm đất chôn. Liền sau đó, uỷ ban phân phát tờ tuyên ngôn lấy ngày 4-4-1926 làm lễ quốc táng. Thi hài Phan Chu Trinh được quàn trong một tuần lễ tại số 54 Pellerin, năm 1975 là Pasteur, và sau này là Nguyễn Thị Minh Khai. Trong suất thời gian xác Phan Chu Trinh được quàn tại Bá Huê Lầu nói trên, hàng ngày, có trên một ngàn đồng bào tới dâng hương, kính điếu, đặt vòng hoa kỷ niệm. Đại diện các nhà cách mạng, các đảng phái, công chức, học sinh, thợ thuyền, các điền chủ đều có đến nghiêng mình trước linh cửu người quá cố. Tất cả các báo Sài gòn đều có đăng bài và hình ảnh về lễ quốc táng này, lời phân ưu của các cá nhân, đoàn thể đối với gia đình Phan Chu Trinh. Cũng trong thời gian này, có mặt đầy đủ hai con gái của Phan Chu Trinh: Phan Thị Châu Liên cùng chồng là Lê ấm, giáo sư trường Quốc Học Huế và Phan Thị Châu Lan, chồng Nguyễn Đồng Hợi (Tham tá công chánh, thân phụ bà Nguyễn Thị Bình).


Lễ quốc táng Phan Chu Trinh có nhiều chi tiết về nghi thức mô phỏng theo quốc táng nhà cách mạng Tôn Dật Tiên, Trung Hoa. Sinh viên, học sinh nghỉ học. Công chức nghỉ trọn một ngày đưa tang. Các tiệm buôn, hàng quán đều đóng cửa tạm nghỉ. Tuy tang lễ tổ chức rầm rộ, nhưng người ta tránh những việc chi tiêu lãng phí. Tất cả đều làm việc cật lực.
Sau đây là chi tiết từ lúc động quan cho đến khi hạ huyệt:

Đúng 6 giờ sáng ngày 4-4-1926, có từ khoảng 60.000 đến 100 000 người (trong khi Sài gòn lúc ấy có độ 300.000 dân) tụ tập hai bên đường Pellerin, đi nối duỗi theo suốt đám tang. Trước khi làm lễ động quan, đám đông tự động sắp hàng bốn, mang băng đen hoặc trắng tuỳ theo họ, mặc áo dài hay đồ Tây. Đám tang diễn qua trung tâm thành phố, trước chợ Bến Thành, rồi tiến về nghĩa trang Hội tương tế Gò Công, gần phi trường Tân Son Nhứt. Dẫn đầu là mười toán mặc đồng phục chỉnh tề, mũ cái két trắng, im lặng bước đều. Tiếp theo sau là các thân hào nhân sĩ, học sinh, thợ thuyền, đảng Thanh Niên tiến bộ... Mọi người cầm biểu ngữ giương cao với những khẩu hiệu, câu đối ca ngợi, tỏ lòng tiếc thương nhà ái quốc Phan Chu Trinh. Có sáu nhân sĩ được cử ra đi kèm theo xe tang do ngựa kéo. Tiếp theo đó, một làn sóng người nối đuôi nhau, lặng lẽ theo sau quan tài. Không ai hút thuốc hay nói chuyện lớn.


Suốt quãng đường xe tang đi qua, dàn nhạc của trường Taberd cử hành liên tục các bài nhạc bi ai, các bài thánh ca. Tại các ngã đường, nhiều phóng viên báo chí, nhiếp ảnh chụp hình đám tang vĩ đại này. Suốt lộ trình đám tang đi qua, từ chợ Bến Thành tới Tân Sơn Nhứt, hai bên đường có nhiều quán nước dựng lên do dân chúng tự động, bưng nước giải khát cho người đưa đám. Họ tặng không nước trà, nước dừa, nước đá, nước chanh. Tại khu vực nghĩa trang có khoảng 200 biểu ngữ, bích chương, viết bằng 3 thứ tiếng Hán, Nôm và Quốc ngữ treo la liệt, cũng như suốt lộ trình. Nội dung các biểu ngữ là của các chính khách, nhân sĩ và đoàn thể dân chúng ca ngợi nhà ái quốc vĩ đại Phan Chu Trinh, trong đó có câu đối của cụ Phan Bội Châu từ Huế gởi vào. Cùng đọc nội dung các câu đối, biểu ngữ, lời chia buồn, người ta thấy xuất hiện nhiều từ ngữ mới như “độc lập, tự do”, “đoàn kết, dũng cảm”, “tranh đấu, giải phóng”... như một thứ tuyên ngôn phát xuất từ đáy lòng của mỗi người dân.


(Hoàng NH xử lý từ file ảnh của thanhnien.online)

Từ Bắc tới Nam, có ít nhứt 40 tỉnh và địa phương đã gởi những lời ai điếu, cầu nguyện cho nhà cách mạng lão thành quá vãng trong ngày quốc táng này. Trước khi hạ huyệt, nhiều bài điếu văn được tuyên đọc bằng những lời bi ai, xúc động, bày tỏ lòng thương tiếc Phan Chu Trinh. Người ta hứa hẹn kế tục sự nghiệp tranh đấu của cụ Phan cho đến khi thành công bằng nhiều đường lối khác nhau.


Phía sinh viên học sinh thì nhấn mạnh đến khía cạnh nâng cao dân trí của cụ Phan là trau giồi trí dục, đức dục. Còn các bậc tiền bối thì vạch rõ các đức tính cao quý của Người: một nhà cách mạng có cuộc đời mẫu mực, khắc kỷ, xa lánh các thú vui vật chất thấp hèn.
- Giới thương gia thì nhấn mạnh đến ý niệm cạnh tranh trên thương trường, giành lại độc quyền cho người bản xứ cũng như ý muốn ban đầu của Phan Chu Trinh là dấn thân vào nghề thương mại để mở mang kinh tế nước nhà.
- Còn giới tư sản, điền chủ thì hô hào ủng hộ thuyết “Pháp Việt đề huề”.
- Gần cuối cùng, có 2 bài điếu văn danh thép mà nội dung, ý tưởng gần như tương phản: Một bài của ông Bùi Quang Chiêu (1873-1945), lãnh tụ đảng Lập hiến, tuyên bố rằng: “Di sản lớn lao nhứt mà chúng ta thừa hưởng của cụ Phan Chu Trinh phát xuất từ ý niệm “tin cậy vào Pháp” và mưu tìm sự phát triển dân trí. Hai là bài điếu văn của cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), là một trong bốn người bạn thân, có thể coi như đồng chí suốt đời, từng vào sinh ra tử với Phan Chu Trinh, thì nhấn mạnh đến việc đòi hỏi một nước Việt nam độc lập và liên đới”. Ông Huỳnh Thúc Kháng còn ca ngợi cụ Phan Chu Trinh là một người cả đời tận tuỵ tranh đấu không mệt mỏi vì lý tưởng cao cả, nhằm giải phóng quốc gia, dân tộc.


Ngoài ra, còn các bài điếu văn khác của đại diện Trung Hoa Quốc Dân Đảng tại Nam Kỳ, đại diện của hơn 1000 thợ thuyền hãng Ba-son. Trong những bài điếu văn ấy, người ta thấy có sự báo hiệu trước về sự chia rẽ chính kiến, sớm muộn gì cũng làm cho họ chia phe phái, và cái hố sâu ngăn cách giữa họ không có thể hàn gắn được sau này. Khắp nơi trong nước, có 16 địa phương làm lễ tưởng niệm nhà ái quốc Phan Chu Trinh.


Tại Phnom Penh, các Việt kiều cũng đã tổ chức lễ truy điệu cụ Phan một cách trọng thể. Ngoài ra, học sinh các trường lớn ở Qui Nhơn, Mỹ Tho, Vinh, Hà Nội... đều có công khai hoặc lén lút tổ chức lễ tang vì nhà cầm quyền ngăn cấm. Cũng vì thế, một số học sinh, công chức, giáo viên liên hệ bị bắt, bị giam và đuổi khỏi trường, khỏi sở làm. Một số lớn trong đó đã theo hoạt động bí mật chống Pháp, từ sau lễ quốc táng này.
Hình thức chung của tang lễ khắp nơi là đóng cửa các tiệm buôn, mang băng tang, tập họp diễn hành im lặng qua các đường phố với cờ và biểu ngữ để đến một ngôi đình chùa, rạp hái, hoặc một miếng đất trống, nơi tổ chức hành lễ... Tại đây, người ta dựng một bàn thờ trang nghiêm, có hình Phan Chu Trinh phía trên, nhang đèn, khói hương nghi ngút. Đặc biệt không có dâng cúng lễ vật, thức ăn như các đám tang khác.


Tại các tỉnh lớn ở Nam Kỳ, nơi có chế độ cai trị rộng rãi, người ta cử đại diện, trí thức lên đọc hoặc kể tiểu sử cuộc đời nhà cách mạng Phan Chu Trinh, hứa hẹn đi theo con đường chính trị của cụ. Có nơi họ mở ngay cuộc lạc quyên góp tiền bạc gởi về ủng hộ uỷ ban tổ chức tang lễ ở Sài gòn, lo việc xây lăng mộ xứng đáng với công lao của một người suất đời hiến thân cho nước. Lần đầu liên, một đám tang biến thành một buổi lễ có màu sắc chính trị, tổ chức rất quy mô, có sự tham dự của thanh niên, phụ nữ và đông đảo quần chúng lao động trong các thành phố lớn. Còn ở Bắc Kỳ, đứng đầu Uỷ ban tổ chức tang lễ là các nhà trí thức mà nòng cốt hoạt động mạnh mẽ là những sinh viên các trường cao đẳng, các học sinh Lycée tại Hà Nội. Họ phân công đi rải truyền đơn kêu gọi đồng bào thức tỉnh. Họ đến các tiệm buôn yêu cầu đóng cửa vào lúc làm lễ, để bày tỏ thái độ lôn kính và thảo các tuyên ngôn đọc trong buổi lễ.


Trên phương diện báo chí, người ta đọc được những bài viết, những lời phân ưu, tin buồn về việc nhà ái quốc Phan Chu Trinh từ trần như:
Báo La Cloche Felée số ra ngày 25-3-1926 có đăng lời chia buồn:
“Ông Phan Chu Trình, người đồng hương cao quý của chúng ta, ngã bệnh từ khi ở Pháp về, đã từ trần hôm qua 24-3- 1926 hồi giờ 30 tối tại Sài gòn, số 54 đường Pellenn. Chúng tôi thành kính nghiêng mình trước di hài của con người thành tâm này đã đau khổ rất nhiều về đất nước”.
Báo “La Lutte” có đăng mấy câu đối viếng của ông Nguyễn An Ninh, người bạn thân cận nhứt của Phan Chu Trinh:
Nhớ khi nào, con thuyền địa hải lúc dạo chơi, lúc phòng khách, biết bao xiết cảm tình, cũng sắp xúm họp một nhà, vì hai mươi lăm triệu đồng bào, quyết ra tay nâng gánh nặng. Hán sau này, biến thành phong trào, này công lý, này cường quyền, rồi có một phe được, sao vội sa chân chai suối, đời đang ở thế kỷ 20, mà sao rẽ bước qua đường?” Nắng gió, xương già phơi hải đảo, Nhớ thương, con trẻ khóc Côn Lôn.


(Câu đối Côn Nôn) Được tin cụ Phan Chu Trinh mất, ông Phạm Quỳnh trong báo Nam Phong số 103 năm 1926, có viết như sau:
“Nước Nam mới mất một bậc chí sĩ là cụ Phan Chu Trinh. Từ nay, tên cụ sẽ ghi vào sử sách, làm tiêu biểu cho một thời kỳ đau đớn trong lịch sử nước nhà. Thời kỳ ấy là cái thời kỳ mà lòng ái quốc bị coi là một tội vạ, người nào nhiệt thành yêu nước là người ấy khốn khó đến thân”. (Sách “Nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền” của Đặng Hữu Thụ trang 33).
Cũng theo sách đã dẫn, trang 37 thì “Khi cụ Phan Chu Trinh qua đời, cụ Phan Văn Trường hô hào trên báo “La Cloche Felée”, yêu cầu đồng bào làm đám tang thật linh đình, vĩ đại, để tỏ lòng tri ân nhà chí sĩ... Cũng do lời kêu gọi ấy, nên số tiền lạc quyên của đồng bào Nam, Trung, Bắc gởi cụ lên tới 10.000 đồng (300 lượng vàng lúc đó). Số tiền này đã trao cho một uỷ ban mua đất, xây lăng mộ gần phi trường Tân Sơn Nhứt.
Câu đối của ông Huỳnh Thúc Kháng như sau:
“Suối vàng thêm một ma chí sĩ, xã hội sẽ thiếu một người đạo sư mở mặt xem qua đó phong trào, thương phường hậu tử. Hán học cũ là nhà danh giá, Tây học mới là vai cự phách, cờ Tây đêm hiện thời nhân vật được mấy tiên sinh.
Báo “Việt nam hồn “ do ông Nguyễn Thế Truyền chủ trương (Tờ “Việt nam hồn” do Nguyễn Ái Quốc chủ trương ban đầu đã chết) số 5, tháng 5-1926 có đăng bài báo bằng tiếng Pháp (trích từ báo “La Cloche Felée” ngày 4-4-1926), thuật lại đám tang vĩ đại của cụ Phan Chu Trinh, nói đến các bài diễn văn của ông Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Thúc Kháng đọc lúc hạ huyệt, nói đến các nhà báo Pháp và Việt tiễn đưa cụ Phan đến nơi an nghỉ cuối cùng: ông Ardin, chủ báo “ Sài gòn Republicain”, ông Mouribout, chủ bút báo “Opinion”, ông Devilar chủ bút báo “Temps d Asie”, ông Fonlaine Laporte, chủ búi báo “La Libre Cochinchine, cụ Phan Văn Trường và Nguyễn Phan Long... có nhiều hình ảnh về lễ tang cụ Phan...”.


Giỗ đầu cụ Phan Chu Trinh tổ chức rầm rộ tại Pháp Như phần trên đã nói, đám tang cụ Phan Chu Trinh là một biến cố lớn về chinh trị, cho nên người Pháp muốn ngăn cấm. Họ hạn chế nhiều biện pháp. Tại Trung Kỳ, triều đình Huế, dưới áp lực của khâm sứ Pháp ra thông tư cấm dân chúng làm lễ giỗ Phan Chu Trinh. Trong khi đó, năm 1927, sinh viên, trí thức và đông đảo Việt kiều tại Pháp tự do làm lễ giỗ, nhớ ơn cụ Phan Chu Trinh. Hai ông luật sư Dương Văn Giáo và Phan văn Trường đứng ra kêu gọi đồng hương hưởng ứng lễ tưởng niệm này.
“Đêm 10-5-1927 tại hội trường hội bác học Paris, ông Nguyễn Thế Truyền, chủ tịch đảng “Việt nam độc lập” và ông Dương Văn Giáo, một lãnh tụ đảng Lập hiến, tổ chức lễ tưởng niệm cụ Phan Chu Trinh nhân ngày giỗ đầu của cụ. Có khoảng 300 người dự lễ, quá nửa là Việt nam, còn lại là người Pháp, người da đen và người Trung Hoa. Lễ tưởng niệm bắt đầu lúc 21 giờ và được đặt dưới quyền chủ toạ của Thiếu tá Jules Roux khi đó làm nghề luật sư tại Tours. Luật sư Dương Văn Giáo nói về tiểu sử cụ Phan và chủ trương Pháp Việt đề huề của cụ, phải coi người Việt bình đẳng với người Pháp”.


Diễn giả thuật lại cuộc đời tranh đấu không ngừng nghỉ của cụ Phan Chu Trinh. Nhiều trí thức Pháp Việt bày tỏ lòng ngưỡng mộ, ca tụng nhân phẩm cao quý và lòng can đảm của cụ Phan. Charles Bellan, cựu công sứ Pháp ở Đông Dương, bày tỏ lòng kính phục nhà ái quốc Phan Chu Trinh và nói rằng các người Pháp có tâm huyết đều kính phục và thương tiếc Phan Chu Trinh. Trong khi tại Pháp dân chúng được tự do làm lễ tưởng niệm nhà cách mạng Phan Chu Trinh, thì tại Việt nam, chính quyền ngăn cấm. Năm sau, 1929, nhà cầm quyền tại Đông Dương cũng ra chỉ thị ngăn cấm dân nữa. Cũng vì thế, trên báo “Tiếng Dân” xuất bản tại Huế, số ra ngày 28-2-1928, cụ Huỳnh Thúc Kháng chủ bút đã viết những lời mỉa mai như sau:
“Người ta hay nói: “chết là hết chuyện”... Thế mà cụ Tây Hồ chết đã 2 năm mà chuyện còn, chưa hết. Năm ngoái, (1927) một tờ thông tư cấm giỗ cụ Tây Hồ, năm nay lại một tờ thông tư cấm giỗ cụ Tây Hồ. Mỗi năm một lần giỗ cụ Tây Hồ, chắc còn mỗi năm một tờ như thế. Thế mới biệt cụ Tây Hồ mất mà tinh thần cụ không bao giờ mất. Người nước Nam ta mà có cụ Tây Hồ thật là có một không hai vậy. Dân ta một ngày nào dừng chân trên mảnh đất này, thì để tâm tang cho cụ Tây Hồ chắc không có cái gì cản được”.

Thành “Xăng Đá” và tỉnh lỵ Gò Công

“Xăng Đá” là tên đọc trại của hai chữ “Solda”, có nghĩa là “lính” (thành “xăng đá” tức thành lính). Ba năm sau khi Pháp làm chủ Gò Công (1868), họ bắt đầu xây thành “xăng đá” để củng cố an ninh trật tự vùng mới chiếm. Bước kế tiếp, người Pháp cho xây dinh Tham biện (Tỉnh trưởng), hồi đó gọi là “Dinh ông Chánh”, kho bạc (ty ngân khô), trường học. Ca dao, câu hát xưa còn nhắc:
Mười giờ ông Chánh về Tây, Cô Ba lại lấy chồng thông ngôn... Trước thành “xăng đá” có một con rạch nhỏ, về sau bắc cầu dân chúng qua lại. Con rạch thông với cầu Huyện. Cầu Huyện kiến trúc bằng sắt, kiên cố, trên lót ván. Ban đầu, chỗ này được gọi là “Cầu quan” vì dẫn đến dinh quan Tham biện. Phía bên kia cầu là khu vực dành cho người Pháp có Bungalow và Bưu điện. Sau này, thành “xăng đá” trở thành trường Nam tiểu học tỉnh lỵ Gò Công. Khoảng đất trống từ phía công viên tới cổng sở Long Thuận, là chỗ cất chợ tỉnh. Khởi đầu nhà ông chợ là một dãy nhà 10 căn, lợp lá, dài, thấp nên thiếu ánh sáng. Hai bên nhà ông, những dãy phố buôn bán tạp hoá của người Hoa. Từ năm 1962, chỗ này đổi tên đường Lê Lợi. Đình làng ở gần chợ bấy giờ, lúc trước là một hồ nước được lấp lại. Phòng thông tin trước kia là chỗ dựng bia kỷ niệm Huỳnh Công Tấn, bị dân chúng phẫn nộ, đập phá năm 1945.
Nhà ông chợ mới, kiên cố như hiện nay, nối với đường Trưng Nữ Vương, ở vào vị trí một bến ghe xuồng sình lầy, đầy cỏ lác lau lách. Hồi đó, dọc theo bến có mấy nhà buôn bán gọi là “vựa” như vựa cá, vựa củi, vựa cối xay, vựa nồi ơ, lu khạp... chất đầy cả bến sông.
Nửa thế kỷ trước, rạch Gò Công cạn và nhiều phù sa bồi đắp, tàu chở hành khách lên xuống Chợ Lớn, phải làm cầu cập bến, gié ra khỏi bờ sông khá xa. Bây giờ chỗ đó đã bỏ, và người lớn tuổi quen gọi chỗ đó là “cầu tàu cũ”. Bến Bắc Mỹ Lợi, lúc ban đầu chưa có bắc chạy máy, phải kéo bằng tay, chèo chống, nên gặp sóng gió rất nguy hiểm.

Nạn “Bạch Đồng” 1915

Mười năm sau, Gò Công phải chịu thêm một thiên tai nữa: Cơn hạn hán kéo dài, làm mùa màng tiêu tan, dân trong xứ gọi là “nạn bạch đồng”. Hồi đầu thế kỷ 20, nông dân làm ruộng phải tuỳ thời tiết. Năm nào mưa thuận gió hoà, mùa màng trúng, đem ấm no, trái lại, dân tình đói khổ. Vì lẽ đó, mọi người đều tin tưởng ở trời đất và thần linh, là những kẻ có quyền ban phúc lợi hay trừng phạt bằng cách gây thiên tai. Theo ông bà kể lại năm ấy (1915), kể từ tháng 7 trở đi, trời nắng gắt không một trận mưa. Nhiều đám ruộng mạ gieo lên xanh, cháy khô, héo úa. Nếu chỗ nào cày cấy được nước ruộng nóng quá, chẳng bao lâu mạ, lúa cũng vàng, tháp, không trổ bông nổi. Khắp nơi ruộng nứt nẻ, mạ khô như rơm một màu trắng bạc, nên dân chúng gọi thiên tai đó là “nạn bạch đồng”


Nắng gay gắt tiếp tục từ ngày này qua ngày khác, làm cho ao, vũng, đìa... khô cạn nước. Thậm chí các sông rạch nước cũng không dâng cao được. Gió Đông Nam thổi hây hây suốt ngày. Đêm, trời cao lồng lộng, sao tỏ rạng như băng, là triệu chứng những ngày nắng gắt.
Dân ta vốn tin quỷ thần, trời đất, nên gặp thời tiết khắc nghiệt thường cho “trời, quỷ thần hành”. Họ đặt bàn hương án trước nhà, bày đồ cúng tế, vái lạy cầu mưa. Nhiều làng tổ chức các cuộc “cầu đảo” làm náo dộng trời đất, hy vọng mưa xuống. Họ tổ chức thành một đoàn vài trăm người như cuộc biểu tình ngày nay, đi khắp làng xóm: dẫn đầu là ông Địa và ông Rồng. Người làm ông Địa mặc áo rộng xanh, tay cầm quạt đi trước. Kế đến là ông Rồng mang đầu rồng, áo rằn ri xanh trắng. Tiếp theo là hai người khiêng trống, phèn la. Dẫn đầu là người thủ xướng cầm hai thanh trẻ vừa hái vừa nhịp “lắc cắc”, trong khi ấy, trống đánh “thùng! thùng!” “lùng tùng phèn”. Những người nối gót theo đoàn cầu đảo đều cầm cái dầm hay chèo, dẫn tới bờ sông hay đi dọc theo đường cái. Tất cả cùng hát:
- Câu trời mưa xuống “lắc cắc, tùng phèn” Cho dân làm ruộng. Hò la hối! “Lắc cắc, lùng tùng phèn. Tùng phèn!” Đoàn người lũ lượt đi qua cánh đồng này tới cánh đồng khác tạo ra một bầu không khí vui nhộn như một đám rước sắc thần. Họ đi từ sớm cho tới chiều tối. Xóm làng nào họ đi qua cũng có người đem cơm vắt, nước uống ra cung cấp. Đi một đỗi, người thủ xướng hỏi ông Địa:
- Chừng nào mưa?
Ông Địa trả lời:
- Chiều nay mưa (hoặc sáng mưa).
Đoàn người ấy cứ diễn hành cả tháng trời như vậy, hy vọng làm náo động cả bầu trời để có mưa. Hồi đó có những câu hát:
Cầu trời mưa xuống, Cho dân làm ruộng, Nước ngập bầu mương, Tốt lúa tươi vườn, Nhỏ phước ban ơn, Dân chúng vui mừng, Đêm ngày cầu khẩn, Trời đất thánh thần, Nắng dịu, mây vần, Đổ mưa tràn sân, Nước ruộng ngập chân, nông nghiệp đội ân...


Đến tháng Mười, bao nhiêu sự mong đợi, cầu khẩn trở thành thất vọng. Nhiều dân đinh trai tráng Gò Công bỏ đi tha phương cầu thực: gặt lúa Đồng Môn (Biên Hoà), mua khoai Trà Bang Long Mỹ, bắp hột từ Nam Vang đem về cứu trợ. Tiền nhân ta có kinh nghiệm của nghề nông “Một năm mất mùa ba năm thiếu đói” (Gò Công, cảnh cũ người xưa” của Việt Cúc, trang 122) Suốt năm 1904, báo chí Nam Kỳ xuất hiện nhiều bài thơ, phú nói về cảnh khổ của dân chúng trong trận lụt năm Thìn: bài song thất lục bát “Gò Công Phong Vịnh Hồng Thuỷ Biến Sanh” của Trần Văn Quan và bài phú “Đám Ca Hồng Thuỷ Điếu Bỉ Sanh Linh”.

Giặc “cào cào” (1905)

Qua năm sau, Ất Tỵ, Gò Công hứng chịu thêm một thiên tai khác: giặc cào cào, châu chấu phá hoại mùa màng, rau cải, cây xanh đều trụi lủi. Không biết từ đâu tới, những bầy cào cào hàng triệu con, như những đám mây, che kín cả một góc trời. Mỗi lần chúng đáp xuống một mái nhà, một lùm cây, chỉ một lát sau, mái nhà ấy chỉ còn đòn tay, rui mè, và lùm cây chỉ còn thân và nhánh trơ trụi như bộ xương. Tất cả lá cây bị cào cào ăn hết chỉ trong khoảng khắc. Nhiều dám ruộng lúa chín vàng sắp gặt. Bỗng đâu bầy cào cào đáp xuống: cả đám ruộng chỉ còn trơ gốc rạ. Chủ đám ruộng chỉ nhìn cảnh tàn phá phá ấy mà khóc ròng. Giặc cào cào châu chấu phá hoại mùa màng và cây xanh thuộc Gò Công trong nửa tháng. Nhà cầm quyền phát cho dân dầu hôi, vôi bột để bài trừ, nhưng chỉ làm chúng thiệt hại một phần nửa. Sau đó, cào cào bay về phía biển Đông mất dạng.
Trong quyển “Gò Công Phong Vịnh” của tác giả Võ Thành Ký viết năm 1911, mô tả giặc cào cào như sau:
Cuộc đời xem lãng nhách, Kẻ dưới trần lạch bạch gian hung.
Năm Giáp Thìn (1904), hồng thuỷ phát trung trung, Người thất lạc hay còn hoài sự nghiệp?
Sang Ất Tỵ, cào cào sanh điệp điệp Kẻ nông tang hết tưởng điền trù.
Hoạ chi mà hoạ phát tu du?
Ta đâu có tái danh bất cập?
Gồ Công thật “điền phi vạn tập” Mạ đương xanh, lúa đương nở, Cắn một hồi bông trái xác xơ, Khổng tước nên địa quản thiên cơ, Cây đương trổ, lá đương đơm, Ăn một lát ngọn ngành trụi lủi...

Tháng năm “chết nhộn”

Mấy tiếng ấy để chỉ một biến cố lớn, một thiên tai xảy ra sau trận bão năm Thìn: đó là trận dịch tả giết chết hàng loạt đồng bào vì ăn ở không theo đúng phép vệ sinh. Kinh nghiệm khoa học cho biết sau khi bão lụt, nếu chúng la không đề phòng bịnh dịch tả (thổ tả, thương hàn)... do xác thú vật sình thúi, thây người chết chôn vội vàng, nước trong các ao hồ nhiễm độc, sinh bịnh. Hồi đầu thế kỷ này, do trình độ hiểu biết còn thấp, ông bà ta cho rằng “bịnh là do tà ma hành”. Khi lâm bịnh, thay vì tìm thầy chẩn mạch, tán phương thuốc chữa đúng bịnh, lại nhờ đồng bóng, các thầy pháp... trừ tà! Vì lẽ đó, mỗi khi có bịnh dịch hoành hành, thường gây chết người hàng loạt mà hồi đó gọi là “chết nhộn”.


Tháng Ba bão lụt vừa qua, tới tháng 5 bịnh dịch tả khởi phát. Theo người biết chuyện kể lại rằng khi quá đói, đồng bào còn sống sót đi bòn đãi lúa gạo rơi rớt trong vũng bùn có xác chết sình thúi. Nước dư còn đọng lại trong vũng, mương, rãnh... rồi nhập với nước trời vừa mưa xuống, tạo thành môi trường độc hại. Đồng bào vô tình cứ múc nước ấy nấu ăn, uống, tắm giặt... Hơn nữa, trên mặt đất vừa mới khô, bẩn thỉu rều rác mục rữa, ruồi muỗi bay đen, rồi gặp sức nóng, mùi xú uế bốn lên nồng nặc. Mọi người ăn ở trong điều kiện thiếu vệ sinh như vậy, nên làm mồi cho bịnh dịch hoành hành. Khi bịnh phát hiện thì sự cứu chữa quá muộn.
Thời gian gần 5 tháng, hai thiên tai đã giết hại gần 3/4 dân số Gò Công. Có gia đình chỉ rạng 10 ngày có đến 3 người chết vì bịnh dịch. Mới khiêng người này ra đồng chôn xong, về nhà lối xóm lại mượn khiêng người khác đi chôn nữa. Đầu xóm nghe có tiếng đóng hòm quách “cành, cành” cuối xóm lại có tiếng “cạch cạch” đóng hòm? Cảnh tượng thật hãi hùng. Mọi người không dám ra khỏi nhà. Nhà nào cũng đóng cửa lại. Ai cũng ăn cơm với muối xả ớt, muối tiêu. Đàn ông, trai tráng mượn rượu làm nữ. Hễ nghe có tiếng trống, liếng mõ hồi một báo nguy, họ cấp lốc tới cứu trợ.


Thơ “Bão Lụt Năm Thìn, nhắc tới “chết nhộn” như sau:
Tháng Ba chết bão dập đùa, Tháng Năm chết nhộn, không thua kém gì! Chết rồi chôn liền, theo tục lệ xưa còn gọi: “chết tức thì chôn tức lịnh”.


Có một giai thoại về “tháng Năm chết nhộn” được lưu truyền như sau: Vợ một ông Lý trưởng (Xã trưởng) phát bịnh, nhắn người đi kêu con trai đang có vợ ở riêng về. Khi được báo tin, anh ấy quá sợ, không dám về thăm mẹ bịnh. Qua ngày sau mẹ anh chết. Hay tin, anh vội vàng mượn con ngựa, tới nơi nhìn xác mẹ, chôn cất xong về tới nhà, đêm ấy cũng phát bịnh ngã lăn ra chết”. Ông Lý trưởng thấy vậy, bỏ ăn uống, buồn rầu, ba ngày sau cũng phát bịnh, đến khuya thì chết.

Mấy thiên tai lớn ở Gò Công

Những ai thuộc lớp tuổi trung niên trở lên, sinh trưởng ở miền Nam, chắc chắn rằng trong đời cũng từng nghe ông già bà cả nhắc tới câu: “Năm Thìn bão lụt”. Trận bão lụt kinh hồn, tàn phá hết hoa màu, nhà cửa, mùa màng tài sản và cuốn đi vô số sinh mạng đến nỗi hễ nhắc tới năm Thìn, người dân có ám ảnh “bão lụt nổi lên”. Hồi nhỏ, tôi và các bạn trong làng, tuy chưa hiểu biết, nhưng cũng bị ám ảnh bởi mấy tiếng “năm Thìn bão lụt” như một điệp khúc mà thỉnh thoảng chúng tôi thường nghe ông bà nhắc lại mỗi lần có đám tiệc.


Trận bão năm Giáp Thìn (1904) là trận bão lớn nhứt thế kỷ 20, gây kinh hoàng cho tất cả các tỉnh Nam Kỳ, không riêng gì ở Gò Công. Từ Biên Hoà cho đến Rạch Giá, Châu Đốc, nơi nào cũng bị tàn phá. Nước ngập mênh mông, cuốn trôi biết bao con người, gia súc. Mấy mươi năm sau, nhiều câu hát, câu vè, câu hò còn nhắc lại ảnh hưởng tàn phá của trận bão ấy. Chẳng hạn mấy câu:
Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc(1) Ngọn gió nào độc cho bằng ngọn gió Gò Công(2) Một ngọn gió đưa lạc vợ xa chồng... Trong quyển “Sài gòn năm xưa” trang 243, cụ Vương Hồng Sển có ghi lại:
“Năm trước, tại Sa Đéc, tôi có hầu chuyện với một bực lão thành, ông phủ Tân Hàm Ninh nay đã quá vãng. Ông từng ngồi chủ quận hạt Gò Công. Ông nói:
- Trận bão năm Giáp Thìn xảy ra vào ngày 1 tháng 5 Dương lịch. Gió thổi mạnh từ lúc 10 giờ sáng tới 10 giờ đêm, nước lụt người trôi, đất Gò Công bỏ hoang vô số kể. Mặc tình ai đủ can đảm, chịu ra mặt đóng thuế, thì làm chủ chính thức.
Tuy vậy, ông Phủ tiếp:
- Nào ai có thèm đâu! Họ chi lo vớt thây ma, lột vàng vòng ăn sốt dẻo, còn hơn tham đất ruộng, rủi thời không tiền đóng thuế, mắc nợ khổ thân ích gì!” Theo ông bà chúng tôi kể lại, cũng như vài vị cao niên, quê quán ở Gò Công mà chúng tôi có dịp hầu chuyện bên trại tỵ nạn ở Mã Lai (1984) thì: “Trận bão lụt năm Giáp Thìn xảy ra vào tháng 3 âm lịch, giữa mùa nắng. Vào lúc 10 giờ sáng, thình lình mây giăng mù mịt, gió bắt đầu thổi mạnh, càng lúc càng mãnh liệt. Đến 3 giờ chiều, gió giật từng cơn, cây cối gãy đổ, nhà cửa tróc nóc, bị gió cuốn bay như con trết. Hầu hết nhà lá bắt đầu xiêu đổ, cây cối gãy nằm la liệt trên đường.
Đến chiều, nước bắt đầu chảy vô cuồn cuộn. Những đợt sóng mãnh liệt như hùa với gió lớn, quét sạch những chướng ngại trên đường chúng vượt qua. Từng đợt, từng đợt sóng tràn vào bờ, cuồn cuộn như thác, cuốn theo những dế rác, củi mục, mái nhà, lu hũ... đều trôi theo dòng nước oan nghiệt. Bỗng có tiếng la thất thanh:
- Bão lụt! Bão tới!
Mạnh ai nấy chạy ra khỏi nhà, tìm chỗ cao ráo để trú thân.
Nước sông Cửa Tiểu, sông Vàm Cỏ càng lúc càng cao. Thơ “Năm Thìn bão lụt” truyền miệng kể lại rằng:
Đời ông chí những đời cha, Mới thấy trận bão tháng ba lạ lùng.
Sông trong bể khổ hãi hùng, Nhà cửa trôi hết, áo quần sạch trơn.
Rương xe thùng bộng, mái lơn(3), Thuyền chài, cối giã chạy bon trên đồng.
Xác người, xác thú chập chồng, Sóng dồi, rêu dập, vun giồng lấp khe. Nước vẫn chảy cuồn cuộn. Chỉ trong một buổi, nước dâng cao 3 thước, chỉ còn thấy lè tè mấy ngọn cây sao, cây dừa. Gió vẫn thổi mãnh liệt. Các làng gần biển thuộc tỉnh Gò Công như Gia Thuận, Kiểng Phước, Bình An, Tân Bình Điền, Tăng Hoà, và Tân Thành bị nước cuốn trôi gần hết. Gia súc, mùa màng, người vật đều làm mồi cho cơn lũ càng lúc càng thịnh nộ. Mưa lớn, sấm sét liên hồi. Một số ít người còn sống sót nhờ níu được những vật nổi như cây chuối, thuyền chài, dế rác lớn, rồi leo lên cây nhịn đói, chịu khát, hy vọng có ghe xuồng nào đi ngang qua vớt họ.
Về “Bão lụt năm Thìn”, tác giả vô danh, mà một vị cao niên có tân thuật lại cho chúng tôi nghe:
Tiết tháng Ba gió lộng cuồng phong, Đêm 16 (âm lịch) cây tan biển lở, Vợ bồng con khóc ngược, khóc xuôi, Chồng lạc vợ, hú kêu vang đất... Suốt đêm rằm và 16 tháng Ba, gió mưa tầm tã. Nhiều người bị nước cuốn trôi, cố bám víu giấy bất cứ vật gì nổi như đống rơm, ngọn cây để sống sót. Những kẻ may mắn ấy vừa đói, vừa khát, kiệt sức... cuối cùng rồi chết chìm theo dòng nước oan nghiệt.

Ông Việt Cúc, tác giả “Gò Công, cảnh cũ người xưa”, ghi lại lời tự thuật của một bà lão:
“ Năm ấy tôi 14 tuổi (sinh năm 1890), sống trong một gia đình gồm 6 người: bà nội, cha mẹ, tôi với 2 em, một đứa 6 tuổi và một đứa 8 tháng. Cha tôi thấy gió lớn từng chập đập vào vách, giựt sập mái nhà, nên lấy bộ ván ngựa tân cửa lại, ràng rịt rất kỹ, nhưng cũng bị luồng gió tộc bay hết nửa mái nhà. Còn nửa mái nhà sập đè lên vựa lúa. Từ bốn phía có tiếng la thất thanh:
- Nước tràn lên rồi! Trời ơi, chạy ngả nào?
Cha tôi chạy ra xem, rồi lật đật quay trở vào nhà. Trong chốc lát, nước ào ào tràn đến, xô đẩy mái nhà day động, sóng nước vùng lên đến cột cái. Vựa lúa của chúng tôi bị ngập đến đầu vựa. Cả nhà bỏ lên vựa lúa, nhờ mái nhà lá sập và đậy úp lên đầu vựa, che sóng nước. Một chập có dề rều rác (giề rác) từ xa trôi tới, tập lên mái nhà, thành cái bè rất to, can ngăn với sóng. Tôi ngồi xem thấy đồ vật trôi nổi ngổn ngang, đến cả thú vật như trâu, heo, nặn hụp và thuyền chài chạy tuông, băng qua trước mặt. Có thằng nhỏ chăn trâu, đứa ở đợ bên xóm, trôi tập vào cây tra. Nó kêu lên:
- Ông Năm ơi! Ba con trâu trôi đi mất rồi. Tôi bị trôi về đây ở trên hàng cây tra đây, ông ra vớt tôi!
Tiếng kêu hãi hùng cho đến tàn hơi rồi im bặt. Trời sắp tối nước dưng càng cao sóng bủa ào ào, đội lên hụp xuống ành ạch, đám bè rung rinh muốn rã. Cha tôi cõng bà nội lên vai, vớ được một ôm cây và rều khác, thả trôi theo dòng nước về hướng Bắc. Thấy cái rều trôi càng lúc càng xa, mấy chị em tôi điếng hồn. Trông theo xa xa chỉ còn thấy cái bóng đen là dấu cái khăn xanh của bà nội tôi bịt trùm đầu, tôi khóc nhưng không ra nước mắt. Chốc lát, sóng phủ rều trôi đi mật dạng. Cái mái nhà bị rều nhận thêm, sóng nước đập vào quá mạnh rồi kéo ra, co giãn nhiều lần, đến lúc phải rời vựa lúa, lần lần trôi đi, đưa mẹ con tôi về cõi vô định.
Trong giờ phút kinh hoàng thì may mắn, rều của chúng tôi tập vào một hàng cây, rồi dừng lại, không trôi đi đâu nữa. Trời cứ mưa ầm ĩ. Màn trời đen sẫm, giữa đêm trăng mờ mờ, mẹ tôi nhìn dưới nước thấy nhiều rơm sóng tấp tả. Mẹ tôi tụt xuống mé rều, rút lên từng nắm rơm ướt, vắt nước, phủ lên đầu mình chúng tôi. Nhờ rơm phủ kín, chị em tôi ôm sát với nhau, ngồi trong lòng mẹ. Quá nửa đêm, gió đã dịu, sóng nhỏ và mực nước lưng chừng. Dưới bóng trăng mờ, mẹ tôi sực nhớ tới em nhỏ, từ hồi chiều đến giờ, không khóc mà cũng không đòi bú, chỉ nằm nhắm mắt chịu trận, thở thoi thóp nhờ manh áo và cái khăn của mẹ phủ lên nó vẫn nằm êm như ngủ. Vì hai em lạnh quá, cứng cả hai hàm răng không khóc la, đòi hỏi gì được. Tay chân tôi móp te, hàm răng cứng nghiến chặt, muốn há miệng nhưng nói không ra lời và đánh cầm cập... Bỗng thấy ánh sáng từ phía Đông vùng lên càng lúc càng to. Chúng tôi cố lắng nghe xung quanh, những cảnh vật lặng ngắt. Đến khi trời sáng tỏ, vài kẻ còn sống sót réo gọi nhau ơi ới, hỏi han từ xa vọng lại: “Ở đây là đâu? Xứ nào hở?...” Rồi bỗng có một chiếc thuyền chài lưới, bơi đi và kêu lên: - Nơi đây là xứ nào? Ai lên tiếng chúng tôi vớt cho!
Rồi có tiếng vang vang:
- Đây là Xóm Lá, ở dưới chợ Tổng Châu. Nhà cửa trôi hết, chúng tôi trôi dạt tập vào dặng cây này. Chiếc thuyền ấy bơi vào, vớt được 4 người. Anh ngồi trên thuyền nói:
- Nhà tôi ở Rạch Bún. Chúng tôi đang lưới cá ngoài biển, thuyền trôi từ chiều hôm qua cho tới đây, anh em chúng tôi vót được hai người ở Vàm Láng và Bên Vựa.
Nhờ nghe ngóng lời đối đáp trên chiếc thuyền chài ở cách đó không xa, và chỉ thấy bóng đen lờ mờ, chập chờn, nên mẹ chúng tôi biết rằng mình còn ở về địa phận chợ Tổng Châu, cũng vững bụng. Ngồi yên đợi đến sáng. Mực nước còn cao đến cỡ hai thước. Nơi nào cũng trắng xoá, rều rác còn trôi lềnh bềnh. Khoáng nửa giờ sau, có nhiều chiếc thuyền đi cứu nạn. Họ bơi vùn vụt, kêu gọi, tìm vớt những người bị nạn chở về chợ. Thuyền này chèo đi, có thuyền khác vừa tới, rao khắp nơi, tìm vớt nạn nhân. Mọi người đều đói lả người, lạnh run. Đến 10 giờ trưa ngày 16 (âm lịch), nước rút chỉ còn 1 thước. Đàn ông thì cõng cha mẹ già, kẻ cõng con, dắt vợ lặn lội, xin nước ngọt để uống và cơm vắt để ăn đỡ đói. Tại chợ Tổng Châu có ban cứu tế nâú cơm gạo lức và chở nước ngọt về phát cho mọi người một vắt cơm, một chén nước cho đỡ lòng. Những người già yếu đều ngất xỉu, phải nhờ ban cứu tế săn sóc”.


Bài thơ “Năm Thìn bão lụt” có những câu:
Sáng ngày quên tuổi quên tên, Nhà cửa trôi hết đưa lên Bồ Đề (?) Lội lên nước mắt dầm dề, Ở truồng, ở lỗ, ê chề rán đi!
Ông Cả (Cả Binh) làm phước ân thi, Gạo lức, nước mắm ăn đi đỡ lòng!
Ăn cơm nước mắt ròng ròng, Đói thì ăn vậy, trong lòng xót xa.
Vì kẻ mất mẹ còn cha, Người thì mất vợ, kẻ thì mất con...
Chiều ngày 16, mức nước rút bớt, cạn còn đến đầu gối. Xác người, thú vật trôi kêu bều. Đồ đạc bừa bãi ngoài đồng. Những xóm đông nhà chỉ còn vài cây cột... Sáng ngày 17, nước cạn nhiều người ta đổ ra tìm thân nhân. Có gia đình chết sạch, không còn người nào. Thây nằm rải rác. Mãi đến ngày 19, người ta mới tổ chức cuộc đi chôn. Hễ gặp xác chết ở đâu thì chôn tại đó.
“Thơ Năm Thìn bão lụt” thuật lại:
Rủ nhau dập xác cho liền, Gặp đâu chôn đó chớ hề ai khiên.
Thân chết chôn rồi đã yên, Còn người sống sót: gạo tiền đâu ăn?
Lúa đổ, bòn đãi lăng xăng, Kẻ năm ba giạ để dành hậu thân.
Quan trên chẩn tếch dân, Phát gạo, quần áo đỡ đần lúc nguy!... Rồi đàn ông đi mót cây ván nát vụn về cất cái chòi tạm trú. Đàn bà kiếm nồi niêu, chum, viêm, và đồ cần dùng, lúa đổ, bòn, đãi phơi khô để nấu ăn.


Nơi đồng ruộng, cá biển mắc cạn vô số. Thừa lúc này những tên trộm và đàng điếm lục xác chết đàn bà để gỡ bông tai, vòng vàng, hoặc chẻ rương lấy vàng bạc. Họ bắt cả trâu bò còn sống về làm thịt nhậu. Tội nghiệp những con trâu còn sống sót, vì quá đói và khát nước, chạy tới vũng này chúc mõm xuống, gặp nước mặn, không uống được, lại chạy tới vũng khác. Chúng nghênh ngáo chạy hoài, đói mệt lả đến năm ba ngày. Sau gặp lại chủ cũ, thân hình chỉ còn da bọc xương?
Rủ nhau đi cất chòi mồng, Xóm đâu về đó cho quan lập làng.
Vàm Láng nhiều tay điếm đàng, Đến ở: trâu vịt, bắt ngang ăn hoài. Sau trận bão lụt, nước rút đi, nhiều ao vũng, trên đồng ruộng, cá biển mắc cạn vô số. Có chiếc tàu lục tỉnh khi vô Vàm Kỳ Hôn để qua kinh Chợ Gạo, nước ngập minh mông, lạc phương hướng, tài công lái sâu vô ruộng mấy ngàn thước, rồi mắc cạn. Trên một ngọn cây cao, có tử thi một người đàn ông, mặc đồ “Quan Công” đeo râu, đội mão nằm vắt ngang như treo võng. Hỏi ra mới biết đó là kép hát, đóng vai “Quan Vân Trường” đang hát trên sân khấu trong đình, đột ngột nước dâng cao, cả rạp túa ra, chạy tán loạn. Nhiều người bị nước cuốn trôi, chết mất xác. Riêng xác “Quan Công” được dân chúng đem xuống, rồi chôn tại chỗ. Cái mả ấy về sau dân chúng gọi là “mả Quan Công”.


Trận bão năm Thìn gây tác hại quá khủng khiếp. Mấy thế hệ sau, ông bà ta vẫn còn bị ám ảnh. Nhiều câu hát ru em ở miền Nam nhắc lại thiên tai đó với sự ngậm ngùi:
Năln Thìn, trời bão thình lình, Kẻ trôi, người nổi, hai đứa mình còn đây. Sau trận bão lụt, gia đình nào cũng ly tán: Có gia đình chết tất cả nhưng cũng có gia đình mất mát vài người, hoặc vợ chồng thất lạc, nhiều năm sau mới gặp lại:
Gặp anh đây mới biết anh còn Hồi năm Thìn bão lụt, em khóc mòn con ngươi! Trận bão năm Giáp Thìn riêng lại Gò Công, số người chết ước lượng đến phân nửa dân số hồi đó, tức khoảng 5.000 người. Hàng năm, đến ngày 16 tháng Ba âm lịch, dân chúng Gò Công, Mỹ Tho, Tân An đều nhớ đến ngày đại nạn của người thân và đồng bào. Khắp nơi trong các tỉnh đều có quyên góp tiền bạc để làm giỗ, cúng vong hồn các nạn nhân chết oan, gọi là “giỗ hội”:
Tháng Ba mùng sáu lai niên, Cũng trùng một bữa, đậu tiền cúng chung.

Chú thích: (1) Nhắc lại sự tích đào kinh Vĩnh Tế, ban đêm phải cắm mốc bằng sào phía trên có cây đuốc, để ở xa nhìn thấy rõ (2) Tức trận bão năm Giáp Thìn (1904) (3) Loại rương lớn, có bánh xe

Cậu Hai Miêng (1858- 1899)

Cuộc đời Huỳnh Công Miêng, con trai Lãnh binh Huỳnh Công Tấn có nhiều nét độc đáo. Huỳnh Công Miêng là người có máu giang hồ mã thượng, thích ngao du và làm việc nghĩa, tính tình hào phóng, dám ăn thua đủ với kẻ mạnh hiếp yếu. Các hành vi nghĩa hiệp ấy được dân chúng Nam Kỳ ưa thích, truyền tụng và tôn làm “cậu” và gọi “cậu Hai Miêng”. Công tử Hai Miêng xuất hiện trước tiên ở Nam Kỳ, là “công tử” tiên phong lớp trước, mệnh danh là “miễn tử lưu linh”, có nghĩa là được miễn sưu thuế, đi đâu mặc tình, không ai được phép “hỏi giấy”... Thừa hưởng sự nghiệp đồ sộ của cha để lại, cậu Hai Miêng ăn xài huy hoắc, phá phách, coi tiền như rác. Đương thời cậu Hai Miêng ăn chơi khắp trong lục tỉnh. Ai cũng nghe danh cậu. Nếu cậu có phạm tội gì nhỏ, cũng không bị truy tố vì Pháp còn nhớ ơn thân phụ cậu. Truyền thuyết về cậu Hai Miêng kể lại rằng: “Có một lần cậu vào thăm quan tham biện Mỹ Tho (Tỉnh trưởng bây giờ) với thái độ hống hách khác thường:
Bước vô trường án(1), vỗ ván cái rầm, Búa xua(2) ông tham biện, bạc tiền ông để ở đâu? Hai câu trên được dân chúng truyền tụng, chứng tỏ hành vi ngang tàng của cậu, không nể bất cứ ai, kể cả viên Tỉnh trưởng người Pháp.


Năm 17 tuổi, Huỳnh Công Miêng, Trần Bá Hựu (em ruột Trần Bá Lộc) Lê Công Phụng, con nuôi của Lãnh binh Tấn, được qua Pháp du học trường La Seyne gần Toulouse. Sau 4 năm, cả ba không đỗ đạt bằng cấp gì cả, nhưng nói trôi chảy tiếng Pháp, về nước được Pháp cho làm thông ngôn, sau thăng ông Phán, Tri huyện... hàm. Đợt sau cậu Hai Miêng có Lê Công Hoàng, Nguyễn Quang Nghiêm (cô cậu với Lộc) đều đậu Tú tài, hồi hương liền được bổ làm Tri huyện ngay. Trường hợp cậu Hai Miêng lúc mới về nước, Pháp cho cậu phục vụ dưới trướng Tổng đốc Trần Bá Lộc, hy vọng cậu nối nghiệp cha, thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa lập công. Khi Lộc đem quân ra Bình Thuận, Khánh Hoà, cậu Hai Miêng cũng có mặt trong đoàn quân thứ đó. Lần này Lộc lập kế bắt mẹ của lãnh tụ nghĩa quân tra khảo, đe doạ giết để Mai Xuân Thưởng về hàng. Kế sách ấy tuy cũ, dã man nhưng hiệu quả. Pháp kích động cậu Hai Miêng lập công, nhưng công việc ấy không hợp với bản tính hào phóng của cậu. Cậu vốn ghét những kẻ ỷ mạnh hiếp yếu, binh vực người cô thế, và rất oán ghét bọn cường hào ác bá. Chán nghề chém giết, cậu Hai Miêng xin xuất ngũ để sống cuộc đời của một kẻ “miễn tử lưu linh”, ngồi ghe hầu chu du khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Cậu Hai Miêng sống cuộc đời ngoại hạng, vượt xa các công thức đương thời. Nghe đồn rằng cậu được Pháp cấp cho tấm giấy “miễn tử lưu linh”, đi tới đâu cũng không bị ai làm khó dễ, miễn dòng thuế thân, miễn sưu dịch, miễn lính tráng. Tuy nhiên, một nhà văn chuyên sưu tầm truyện xưa tích cũ là cụ vương Hồng Sển cũng cho biết “chỉ nghe đồn như vậy, chớ chưa thấy tận mắt tấm giấy “miễn tử lưu linh” của cậu Hai Miêng”.
Cậu Hai Miêng cũng cờ bạc cầu vui, hút thuốc phiện, bao em út ăn xài không tiếc của. Dư luận Gò Công hồi trước thường kể giai thoại về cậu Hai Miêng như sau:


Lúc mới về nước, cậu chỉ thích võ nghệ, luyện côn quyền (một loại võ khí cổ, chỉ dùng sức mạnh), múa kiếm. Cậu nổi tiếng anh hùng khắp xứ. Vì không muốn bị ràng buộc, làm tay sai cho Pháp. Cậu trả chức tước Pháp ban cho. Hàng ngày cậu đi đá gà, uống rượu, hối me (một thứ cờ bạc) thả giàn. Có lần cậu đi xuống Giồng Tháp để hốt me, nhiều đàn em theo để mang một bao bạc giấy, thứ bạc con cò, rất có giá trị hồi cuối thế kỷ 19. Cậu Hai Miêng cầm chén hốt me, có các thủ hạ là Bảy Danh, Ba Ngà, Tám Hổ lo vừa tiền và chung tiền. Sòng me nào có cậu cũng ăn thua rất lớn. Lúc sòng bạc tan, cậu ra về, đi ngang qua một vườn xoài, thấy nhiều trái xoài vừa chín ửng vàng, trông rất ngon lành, cậu kêu chủ nhà hỏi mua. Chủ nhà bằng lòng, đi lấy cây sào tới hái. Cậu cười, nói:
- Để tôi hái cho, khỏi cần sào!
Nói xong, cậu giậm chân, nhún mình, nhảy lên rứt một lượt mấy trái xoài chín cây. Ai nấy đều khen ngợi.
Trong “Thơ Cậu Hai Miêng” có đoạn mở đầu như sau:
Nam Kỳ có cậu Hai Miêng, Con quan lớn Tấn ở miền Gò Công.
Cậu Hai là bực anh hùng, Ăn chơi đúng bực anh hùng liệt oanh!
Nam Kỳ lục tỉnh nổi danh Khác với cha hống hách, cậu Hai Miêng ăn ở rộng rãi với mọi người, hay chia xẻ tiện nghi với anh em, bè bạn và những kẻ dưới tay, cho nên du côn khắp xứ đều kiêng nể cậu, kính phục cậu Cậu tới đâu cũng được đồng bào ủng hộ, thương mến:
Xóm làng ai cũng đều thương, Cậu Hai trung hậu, lòng nhân ai bì?
(Thơ Cậu Hai Miêng)
Hồi đó, trong những đám giỗ, đám cưới có dịp thức khuya, đồng bào Nam Kỳ hay kể nhiều giai thoại về cậu Hai Miêng: “Khi Pháp cho đào Ao trường đua (xung quanh là đường vòng đua ngựa), bắt dân phu trong tỉnh Gò Công phục dịch, làm sưu cực khổ. Họ cưỡng bách lao động như tù khổ sai: ban ngày đào đất, đắp lộ ban đêm ăn ngủ tại chỗ. Hết toán này tới toán khác thay phiên, còn bị cặp rằn (tức giám thị) đánh đập như súc vật vì muốn công việc mau xong. Một buổi sáng, cậu Hai Miêng đi ngang qua đó, thấy cảnh làm việc quần quật mà còn bị đánh như trâu ngựa. Nổi máu anh hùng, cậu liền thộp ngực một tên cai mã tà (cảnh sát bây giờ) hung ác, đấm đá luôn. Cai Phi, cặp rằn đều bị cậu cho ăn mấy bạt tay, rồi cậu bắt họ đội đất chạy lên chạy xuống như mấy người dân đang bị hành hạ. Ngoài ra cậu còn quất cho họ mấy roi.
- Tao đánh chúng bây coi tụi bây có đau như dân phu hay không?
Cũng từ đó, dân phu đào Ao trường đua bớt bị hà hiếp, đánh đập như từ trước đến nay. Đi ngao du tới đâu, cậu Hai Miêng cũng trừng trị bọn cường hào ác bá tới đó. Đối tượng trừng trị của cậu là bọn nhà giàu, điền chủ hống hách, các ông làng, cai tổng chuyên môn bắt nạt dân địa phương. Ngay đến cả Tây, cậu Hai Miêng cũng ương ngạnh, cứng đầu, không khuất phục. Khi hết tiền, cậu ghé dinh tham biện, chủ tỉnh “mượn đỡ” để xài. Nể tình cha cậu, các quan Tây cũng giúp đỡ ít nhiều. Hồi trước ở miền Nam, thấy ai ăn ở tánh nết ngang tàng, ông bà ta thường nói:
Cậu Hai, cậu chớ có lo, Hết tiền, cậu cứ xuống kho lấy xài(3) Tôi được nghe một giai thoại chính cụ Nguyễn Văn Vực kể lại: “Có một lần đoàn ghe hầu mấy chiếc của cậu Hai Miêng ngao du tới xứ Bạc Liêu. Lúc đó nhằm mùa khô, nhiều ghe chài đến “ăn lúa” tại nhà các đại điền chủ. Lúc đó, dưới bến sông, trước nhà anh em ông chủ Thời, chủ Vận diễn ra cảnh vác lúa xuống ghe rộn rịp như cái chợ. Ở địa phương này, dân chúng ai cũng ngán hai anh em chủ Thời, chủ Vận. Ông chủ Thời có một cô con gái tên là “Cô Hai Sáng”. Dân chúng khắp trong vùng này không ai dám nói đến chữ “Sáng” như “buổi sáng”, “hồi sáng mai”, mà phải nói lại “buổi sớm”, “sớm mới”... thì đủ biết thế lực hai ông ấy ra sao.
Khi mấy chiếc ghe hầu của cậu Hai Miêng do thủ hạ chèo đi ngang qua, vô tình ông chủ Thời trông thấy, kêu một đứa bạn (người ở đợ) gần đó, hỏi lòn:
- Ghe của ai đi dưới sông đó bây?
Nghe câu hỏi phách lối ấy, cậu Hai Miêng tức giận. Cậu cho ghe ghé lại. Thấy cô Hai Sáng đang đứng chơi dưới bến, cậu Hai Miêng liền cho tay chân bộ hạ bắt cô ta trói lại, và kéo lên cột buồm. Khi biết đó là cậu Hai Miêng, quan tham biện Pháp còn nể, ông chủ Thời xuống nước nhỏ, năn nỉ. Ông thương lượng với cậu Hai Miêng “xin chuộc” cô Hai Sáng bằng một bao cà ròn giấy bạc. Bao cà ròn đơn bằng đệm bàng, đáy rộng, miệng túm, hồi trước thường dựng gạo, dung lượng khoảng 10 lít (hay 1 yến), rất thông dụng ở Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Lúc đó nhiều Hoa kiều từ miền Hoa Nam nhập cư vào miền Nam, chịu khó buôn bán lẻ. Hàng ngày, họ vác một bao cà ròn trên vai đựng cốm, kẹo, thuốc cảm mạo, kim, chỉ, thuốc hút, bánh in... đi len lỏi vào các miền quê bán dạo. Người dân quê gọi “cái chợ nhỏ lưu động ấy” là “chệt cà ròn” (cà ròn khị). Khi ông chủ Thời năn nỉ xin tha cho cô Hai Sáng, cậu Hai Miêng bằng lòng, mở trói cho cô Hai Sáng, rồi gia nhân ôm bao cà ròn đầy nhóc giấy bạc xuống ghe, chèo đi. Từ đó, ông chủ Thời, chủ Vận bớt hống hách với dân làng.


Bình thời, cậu Hai Miêng có tác phong của người bình dân, thân với tá điền, lối xóm quen lạ. Gặp lúc đương đầu với ai, cậu rất hung dữ vì có võ nghệ, dám chấp cả bọn du côn, đàng điếm chuyên ăn hiếp kẻ cô thế. Có lần cậu Hai Miêng xuống điền ông La Bách (Labast) ở Sóc Trăng, trừng trị bọn cặp rằng hà hiếp các nông dân tá điền, dân chúng địa phương còn nhắc tới cậu như một cử chỉ biết ơn.
Tuy có học bên Tây, nhưng cậu Hai Miêng cũng có ít nhiều tác phong của bọn du côn do ảnh hưởng của Thiên địa hội. Ông Cai tổng Lê Quang Chiều, người Phong Điền, Cần Thơ, là thúc phụ của bác sĩ Lê Văn Hoạch(?), có soạn quyển “Quốc âm Thi Hiệp Tuyển”, trong đó, có bài thơ ca ngợi cậu Hai Miêng:
Số hệ ai làm hỡi cậu Miêng?
Ba mươi tám tuổi du huỳnh tuyền. (1857-1895) Sao lờ Bến Nghé xiêu người ngó, Khói toả Cầu Kho thăm vợ hiền.
Đúng bực phong lưu trời vội dứt Những trang hào kiệt đất không kiêng.
Cho hay khuất bóng danh còn tạc, Nhựt báo đòi nơi đã khắp truyền. Huỳnh Công Miêng mất năm 1895, được an táng trong một ngôi mộ lớn ở đường Nguyễn Tấn Nghiệm (nay là Trần Đình Xu). Thơ Cậu Hai Miêng là một trong những tập thơ có sức phổ biến rất mạnh ở Nam Kỳ. Thấy dân chúng hâm mộ con người ngang tàng ấy, người Pháp tìm cách ngăn cấm, nhưng không ngặt nghèo như các bài thơ khích động tinh thần yêu nước khác.


Nhiều người lớn tuổi vẫn thuộc lòng từng đoạn khác nhau. Quyển “Thơ Cậu Hai Miêng” do tác giả Văn Phước Nguyễn Bá Thời Sáng tác, nhà in Tín Đức Thư xã ấn hành năm 1928, lưu truyền lai rai, mãi đến năm 1954 mới tuyệt bản. Hai vợ chồng Huỳnh Công Tấn chỉ có 3 người con: một trai là Huỳnh Công Miêng, hai gái đều tu theo dòng kín. Thay vì sống cảnh đời trần tục để hưởng phú quý do tài sản của cha để lại, cả 3 người đều tìm một cuộc sống riêng tư. Tuy không phải là con đường phục vụ dân tộc để trả món nợ tội lỗi của cha, nhưng họ cũng không làm điều gì đáng chê trách. Vì lẽ đó, trong dư luận miền Nam có người nói rằng trường hợp Huỳnh Công Tấn “cây đắng sanh trái ngọt” không biết có đúng không?
Chú thích:
(1) Trường án: cái bàn dài; bua-rô ông chánh tham biện (2) Búa xua: Bonjour, câu chào tiếng Pháp.
(3) Kho bạc, tức ty ngân khố

Huỳnh Công Tấn : Cây đắng sanh trái ngọt?

Về cuộc kháng chiến chống Pháp của anh hùng Trương Công Định, từ trước đến nay nhiều sách báo đề cập đến, viết đi viết lại nhiều lần, chúng tôi sợ nói thêm làm nhàm chán độc giả. Hơn nữa, yếu tính của những bài viết có liên quan đến lịch sử phải là những khám phá mới lạ. Ở đây chúng tôi nói đến một nhân vật bị người đòi lên án, nguyền rủa nhiều nhất là Lãnh binh Huỳnh Công Tấn (1838-1875) mà ngay cả những bài học lịch sử cũng nói rất ít về bản tính, con người của ông ta do quan niệm “văn dĩ tải đạo” (văn chương chuyên chở đạo lý).


Theo truyền thuyết của người địa phương kể lại thì Huỳnh Công Tấn là hậu duệ, thuộc hạ của nhóm di thần nhà Minh, tới vùng Cù Úc, Định Tường vào cuối thế kỷ 17. Huỳnh Công Tấn làm tội phản phúc, đã sát hại chủ tướng của mình để tranh đoạt quyền lực vinh thân phì gia. Một nguồn tin khác cho rằng, “viễn tổ của Huỳnh Công Tấn gốc Đàng Ngoài (tỉnh Quảng Bình) di dân vô Nam thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Hai thuyết có sự khác biệt, nhưng có một điều giống nhau về cá tính: “Tấn dốt nát, hiếu sát, nhiều tham vọng”.


Theo “Hồ sơ lãnh binh Huỳnh Công Tấn” do nhà văn Sơn Nam kể lại thì chính Tấn đã kể lại với Paulin Via ngày 31-7- 1869 thì “Tấn bị Pháp bắt trong một trận hành quân, và sau đó hắn xin đoái công chuộc tội”. Nhưng theo cụ Nguyễn Văn Vực, một người bạn vong niên của chúng tôi, một người chuyên nghiên cứu chuyện xưa tích cũ ở miền Nam, thì “Tấn là người có tật đam mê đàn bà con gái, thường trêu chọc và có những hành vi bất chánh với phụ nữ, nên có một lần bị chủ tướng là Trương Công Định tát tai để cảnh cáo”. Tấn căm thù để bụng và chờ dịp trả thù. Tấn bí mật liên lạc với một người quen cũ là Nguyễn Hữu Nguồn, đã đầu thú Pháp, để được Nguồn giới thiệu Tấn xin hàng”. Nguồn đưa Tấn về Chợ Lớn trình diện với Trung uý Francis Garnier, lúc đó làm tham biện tại đây. Lúc bấy giờ, F. Garnier rất quan tâm đến việc vãn hồi trật tự, an ninh trong vùng mới chiếm, nhứt là vùng từ Chợ Lớn qua tới Cần Giuộc nằm trong phạm vi trách nhiệm của hắn. Francis Garnier là một người trẻ tuổi, rất hăng hái hoạt động. Mấy năm sau, F. Garnier theo phái đoàn Doudart de Lagrée đi thám hiểm sông Cửu Long. Xưa nay trong chiến trận, tiếp nhận kẻ địch về hàng để khai thác là một lợi thế của kẻ làm tướng, ít khi bỏ qua. F. Gamier đối đãi với Tấn lịch sự, niềm nở và chỉ đường cho Pháp trong những trận ruồng bố các vùng Tân An, Mỹ Tho, Gò Công. Hoàn toàn không có mặc cảm khi ra phục vụ chủ mới, Tấn dẫn đường cho Pháp tìm diệt nghĩa quân. Thấy Tấn hăng hái lập công, Pháp cho Tấn làm đội trưởng mã tà. Hai năm sau, Tấn được đề bạt chức “Lãnh binh” là quan võ coi việc quân sự trong một tỉnh thời đàng Cựu. Có chức, có quyền, Tấn vừa tận tuỵ phục vụ chủ mới vừa tìm cách mua điền đất của nhà giàu bỏ chạy để làm của riêng.


Năm 1862, ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường đã mất nhưng Gò Công nhờ địa thế hiểm yếu, rừng rậm âm u, sông rạch chằng chịt, mà Đại tướng Trương Công Định còn cố thủ được thêm 3 năm nữa. Ngoài yếu tố địa thế, tại đây, lòng người vẫn còn hướng về triều đình vì có dòng họ ngoại của nhà vua. Nhiều lần từ Định Tường, Tấn dẫn quân Pháp đánh qua Chợ Gạo, tới Thạnh Nhứt, Gò Bầu và đụng độ với nghĩa quân nhiều trận, không tiến xa hơn được. Mỗi lần như thế, Pháp lại rút về Mỹ Tho củng cố lại lực lượng. Vẫn theo kế sách dùng gián điệp, Pháp tìm cách mua chuộc một người địa phương có thế lực mà dân chúng gọi là “bá hộ Huy” (không rõ họ gì). Huy là người quê ở Đồng Sơn, bí mật hẹn làm nội ứng cho pháp. Quả nhiên lần này Pháp ruồng xuống, tấn công các vị trí hiểm yếu của nghĩa quân, tiến sát rồi bao vây tỉnh Gò Công, bắt sống tri huyện Đỗ Trình Thoại (sách Pháp gọi là “tri huyện Toại) rồi giết đi. Đỗ Trình Thoại là người huyện Tân Hoà, trước kia làm tri huyện Long Thành, tỉnh Biên Hoà. Khi Pháp chiếm Gia Định, Đỗ Trình Thoại cùng Thủ khoa Huân, Trương Công Định chiêu mộ quân ứng nghĩa, chiếm địa bàn Tân An, Gò Công làm căn cứ. Khi Pháp chiếm Gò Công, tri huyện Thoại cho mở đường máu để thoát. Hai bên đánh xáp lá cà, tri huyện Thoại đâm chết tên lính Bodier, nhưng bị Pháp bắt rồi giết tại trận. Sau đó, Pháp rút về Định Tường, phong bá hộ Huy làm tri huyện, cai trị Gò Công. Lúc đó, Trương Công Định bận qua Lý Nhơn, chiêu tập thêm binh sĩ để lập chiến khu Bình Xuân. Hay tin Gò Công mất, Định đem quân về bắt tri huyện Huy giết đi, đuổi tàn quân Pháp về phía Gò Bầu, và chặn đánh thêm mấy trận phục thù.


Đại tướng Trương Công Định giữ Gò Công được 3 năm (1862-1864). Do đó, lần này Pháp quyết tâm triệt hạ Gò Công. Lần đó Huỳnh Công Tấn làm hướng đạo, dẫn đường cho Đề đốc Jaurés đem 3 chiến thuyền từ Vàm Bao Ngược tiến vào sông Tra, đổ bộ lên Xóm Tre (nay là Bình Thành Đông) bắn phá các đồn luỹ của nghĩa quân, nhưng không chọc thủng phòng tuyến được ở mặt trận này. Vốn thông thạo địa hình, Tấn bày kế cho Pháp đem mấy tàu chiến chạy vòng trở ra biển, vào Cửa Tiểu, tấn công vào phía Đông tỉnh thành. Pháp đổ quân ở Bến Chùa, vào Cửa Khâu, đánh bọc lên Giồng Nâu, Tân Quân Trung, rồi chiếm thành Gò Công. Đại nguyên soái Trương Công Định gom tàn quân rút về phía rừng Sác, nằm gần biển, gọi là “đám lá tối trời” mất dạng. Thất vọng vì không bắt được Trương Công Định, Tấn tức giận lắm, tìm mọi cách để trả thù. Tấn tung ra một số tiền để mướn những người chỉ điểm, phát giác chỗ lẩn trốn của Trương Công Định. Trong một lần ruồng bố vào Bình Xuân, Tấn bị thương ở bắp chân, được Pháp ưu ái săn sóc, chở về Sài gòn điều trị. Lành bịnh, Tấn hung hăng đánh phá không ngừng nghỉ. Về cái chết của Trương Công Định, truyền thuyết của địa phương thường kể lại rằng:
“Buổi chiều 17 rạng 18 tháng 7 âm lịch năm 1864, lối 3 giờ chiều, Đại tướng Định cảm thấy trong người bần thần bứt rứt khó chịu. Ông muốn đi Lý Nhơn, nên gọi hai tên hộ vệ bảo sửa soạn ghe thuyền chèo đưa ngài đi. Nhưng có người thuộc tướng tên gọi Xã Tài, năn nỉ cầm Ngài ở lại vì anh ta đang làm tiệc rượu sắp dọn ra. Vì thế Ngài hoãn chuyến đi Lý Nhơn. Đêm ấy, sau buổi tiệc, Trương Công Định ngủ lại tại nhà Xã Tài cùng mấy mươi binh lính thân tín, bị Tấn đem binh đến bao vây. Ngài phá vòng vây thoát ra ngoài nhưng bị Tấn bắn một phát quỵ xuống. Tấn lại khuyên Định ra hàng. Ngài tuất gươm chỉ vào mặt Tấn mắng nhiếc rồi tự đâm vào bụng tự sát”.


Trước cái chết của người anh hùng lãnh đạo cuộc kháng chiến, dân chúng và nhứt là giới sĩ phu hết lòng thương tiếc. Trong số những bài thơ của tác giả vô danh ca ngợi Trương Công Định có những câu:
Gò Công mấy trận thắng Gò Bầu, Địa hiểm, Trương Công dụng võ mầu, Quốc biến loạn thần cùng phản tặc, Một trung, hai nịnh khó đương đầu. Một trung là Trương Công Định, hai nịnh là Huỳnh Công Tấn và Xã Tài, lập mưu giết chủ tướng. Theo lời ông Việt Cúc:
“Đến những năm đầu thế kỷ 20, Gò Bầu trở thành sào huyệt bọn cướp nổi tiếng. Chúng đem đồ gian ăn cướp được, dắt trâu bò khắp nơi quy tụ về đây, nhốt dưới hầm kín, để cho bè bọn dẫn đi bán nơi khác cho mất tích. Đồng loã, chủ chứa là Ba Dư, Sáu Nhọn, Mười Ngỗng... chỉ sốnlg sung túc nhờ nghề bất lương ấy. Thật là một cõi chợ đen có tổ chức hoàn toàn bí mật, qua mặt nhà chức trách. Nhưng cũng được một thời gian sôi đọng, sau rồi cơ mưu bại lộ. Nhà chức trách vây bắt nhiều phen, nhóm ấy lần hồi tan rã. (“Gò Công, cảnh cũ người xưa”, trang 78) Khi Bình Tây Đại tướng Trương Công Định chết rồi, nhiều tuỳ tướng của ông lần lượt sa lưới Pháp hoặc bị bắt, hoặc bị giết.


Đốc binh Chấn, người lập chiến công trong trận đánh sông Tra, và trận phục kích tại Gò Sơn Quy, Xóm Tre tới Gia Thuận... bị bắt, kết án lưu đày ra Côn Đảo tới 9 năm sau mới trả tự do. Khi được tha về nhà, ông Chấn mở trường dạy học tại Giồng Tháp, cho đến khi mất vì tuổi già. Các ông đội Nhon, đội Được, đội Sài cũng bị giam mấy năm tại đề lao Mỹ Tho mới được thả về làm ruộng. Riêng đội Tùng bị đày và mất tại Côn Đảo. Ông đội Lang bị án 4 năm tù, khi mãn hạn về quê làm ruộng, phá mé rừng Cóc, dạy học trò khá đông. Chỗ này về sau gọi là xóm “Đội Lang”.
Khi hạ được Trương Công Định, Pháp ra lịnh đem xác Ngài về Gò Công phơi nắng 3 ngày, cho đến khi sình thúi mới ra lịnh cho thân nhân chở về chôn. Một bà thiếp của Ngài dừng ra làm lễ mai táng. Ít ai biết rằng trong đạo quân “Bình Tây” của Đại nguyên soái Trương Công Định có một toán nghĩa quân do nữ binh giỏi võ nghệ tên Phạm Thị Hiền cầm đầu. Bà Hiền là em ruột của ông Phạm Tự, cùng là tuỳ tướng của Trương Công Định. Khi Định rút về Gia Thuận, Kiểng Phước và “đám lá tối trời”, thì toán nghĩa quân của bà Phạm Thị Hiền giữ nhiệm vụ giao liên, tiếp tế. Đến khi Trương Công Định thọ hại, Phạm Thị Hiền cũng bị bắt và bị giết cùng một số đồng đội. Ông anh cả vượt sông Tiền, sông Cổ Chiên lánh nạn ở Rạch Rừng, bây giờ là xã Hựu Thành, quận Vũng Liêm. Về sau do sự phát hiện của tổng Dõng, ông này cũng bị bắt và bị giết.
Hiện nay lăng mộ của Trương Công Định ở tại châu thành Gò Công, nằm trên đường Kinh lấp cũ tức đường Phạm Đăng Hưng. Sau khi Định chết rồi, Huỳnh Công Tấn càng ngày càng hống hách. Hắn bắt người tình nghi tra tấn khảo của. Tấn ngang nhiên cướp ruộng đất của các nhà giàu bỏ chạy xuống 3 tỉnh miền Tây ty nạn. Ngoài ra Tấn còn mở sòng bạc lấy xâu. Chỉ trong một thời gian ngắn hơn 10 năm, Tấn trở thành người giàu nhứt Gò Công, có hàng ngàn mẫu ruộng. Để củng cố lòng tin của Pháp, Tấn còn đem quân qua Cần Giuộc để dẹp một cuộc khởi nghĩa do Bùi Duy Nhứt lãnh đạo... Sẵn uy quyền Tấn mặc tình sanh sát với mục đích làm tiền. Nghi ngờ ai có mặc tình với nghĩa quân, Tấn cho bắt về tra khảo. Người nhà nóng lòng, đem vàng bạc đến xin đút lót cho vợ Tấn để xin tha. Cũng trong thời gian này, nhiều người vì tư thù cũng tố cáo lẫn nhau “là quân hoang dã” để chúng mặc tình hãm hiếp, cướp bóc. Trời bất dung gian. Năm 1875, Tấn ngồi ghe hầu đi Sài gòn. Giữa đường Tấn bị cảm rồi chết trên ghe, năm đó hắn mới 37 tuổi!


Lúc thịnh thời, lãnh binh Tấn rất hống hách, ai cũng sợ. Gặp ông ta, dân chúng khúm núm: Bẩm ông lớn! và gọi vợ ông ta là “bà lớn” hoặc “bà Lãnh binh”. Tôi được nghe một cụ già, dân cố cựu đất Gò Công kể lại là: “Ông từng nghe ông bà nhắc về Huỳnh Công Tấn khi chết thực dân Pháp cho làm đám ma rất lớn, có dàn nhạc Tây đưa linh cữu. Pháp muốn làm ra vẻ biết ơn một người bản xứ đã cúc cung phụng sự cho quyền lợi đất nước họ. Khi Tấn chết, quan tài quàn trong nửa tháng, để dân chúng vì sợ ông ta đến phúng điếu, lạy và khóc trước linh cữu. Mỗi ngày gia đình Tấn cho vật trâu, bò để đãi hàng trăm thực khách xa gần. Khi động quan, có các chức sắc Pháp Việt, lính mã tà bồng súng đi theo sau quan tài từ nhà Tấn đến làng Tân Luông Đông. Trước khi an táng, hồi đó người ta cho đào sẵn 5 cái huyệt (giống trường hợp cái chết của Tổng đốc Lộc năm 1900) ở 5 chỗ khác nhau. Khi hạ rộng, chỉ có quan binh và người thân trong gia đình mới biết rõ huyệt nào có quan tài, có lẽ sợ kẻ ăn trộm đào mồ cướp vàng bạc. Mỗi năm đến ngày Tết, lễ Thanh Minh, “bà lớn” đi viếng mộ, sai đầy tớ, gia nhân dọn cỏ, quét cả 5 cái mộ ấy. Đến trước mỗi mộ, “bà lớn” đều nói:
- Đây là mộ ông Lãnh binh!
Sau khi Tấn chết rồi, Pháp vẫn để vợ Tấn ở trong một căn nhà lớn phía sau ty Công an thời ông Diệm. Hàng tháng, Pháp cấp cho bà một số tiền tựa như “tử tuất” của chồng. Ngoài số ruộng đất lên tới một ngàn mẫu, gia đình Lãnh binh Tấn thừa hưởng tài sản của ông để lại kếch xù, nên được dân Gò Công liệt vào hạng nhà giàu nhứt địa phương vào cuối thế kỷ 19.
Pháp cho dựng một đài kỷ niệm ghi ơn Lãnh binh Tấn với mấy dòng chữ “à la mémoire du Lãnh binh Huynh Cong Tan, chevalier de la Légion d’ honneur, fidèle servicteur de la France” (Tưởng nhớ Huỳnh Công Tấn, người được ân thưởng Bắc đẩu bội tinh công bộc trung thành với Pháp).


Chỗ đó, khi Nhựt đảo chánh Pháp vào năm 1945, dân chúng phẫn nộ, kéo tới đập phá bia, đem bỏ vào trong chùa Bà, và di ảnh Huỳnh Công Tấn họ thả trôi sông!
Về sau, nhà cầm quyền cho xây dựng Phòng Thông tin, nhưng người cố cựu vẫn gọi di tích đó là “Tháp Lãnh binh”. Kế bên Tháp Lãnh binh có một căn nhà cao, rộng, cất bằng vật liệu nặng, là nhà ông “Thông Sang”, một cộng sự viên đắc lực cho Pháp ở địa phương vào cuối thế kỷ 19. Ông Thông Sang là người theo Pháp vào những thập niên cuối thế kỷ, làm giàu nhỏ Pháp nâng đỡ theo kiểu Huỳnh Công Tấn. Đến năm 1920, nhà ông Thông Sang bán cho công ty Húi Bon Hoa của chú Hoả để mở tiệm cầm đồ.

Gò công, nơi phát tích các dòng họ quý tộc



Viết bộ “Nam Kỳ lục tỉnh”, chúng tôi chỉ có một ước vọng nhỏ là mời bạn đọc đi thăm các miền đất nước phương Nam, từ thời hoang sơ mới khai phá, trải bao thăng trầm, những biến động chính trị, lịch sử dồn dập giữa thế kỷ 20, cho tới thời hiện lại. ẩn tàng trên các lăng mộ, đền miễu, phảng phất trên các gò đống, những giồng đất cao, ngàn cây nội cỏ như có bóng dáng của tiền nhân đổ bao mồ hôi, sức lực, trải bao đau thương và khí phách, mới tạo dựng được một miền Nam trù phú như ngày nay. Đi thăm lại quê hương đất nước là để thấy công lao của tổ tiên đổ xương máu khai phá, giữ gìn mảnh đất này để chúng ta yêu mến hơn, trân trọng hơn. Thay vì tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp đó người cộng sản tới đâu phá nát đất nước tới đó, nghèo nàn, lạc hậu, thụt lùi...



Người xưa thường nói “Địa linh nhân kiệt” ám chỉ cuộc đất linh thiêng phát sinh những bậc anh hùng hào kiệt, lương tướng danh thần, tạo nên những sự nghiệp hiển hách. Gò Công hồi trước là noi phát xuất của những đạo quân danh liếng lẫy lừng do anh em Võ Tánh, Võ Nhàn lãnh dạo. Gò Công trong thế kỷ kế tiếp là nơi phái sinh các dòng họ Phạm, họ Nguyễn, đều là ngoại thích các triều vua cận đại Theo thuyết phong thuỷ, địa lý xưa, ông bà chúng ta rất quan tâm đến cuộc đất an táng mồ mả của tổ tiên. Chính cuộc đất ấy là đã quyết định vận mạng của dòng họ, cải đổi từ cuộc sống lam lũ trở lên hàng công hầu, khanh tướng. Nếu ở miền Bắc có Bắc Ninh, Thiên Trường là nơi phát sinh các vua nhà Lý (1010- 1225), nhà Trần (1225-1400), miền Trung có Tống Sơn, Thanh Hoá là đất quý hương của các vua nhà Nguyễn, thì Gò Công ở Nam Kỳ cũng là nơi khởi nghiệp các dòng quý tộc, ngoại thích các vua thời cận đại.
Vào năm 1834, bắt chước cách tổ chức hành chánh của nhà Thanh, vua Minh Mạng cho đổi tên “trấn” thành “tỉnh”, rồi lập thêm tỉnh mới An Giang, như vậy Nam Kỳ lục tỉnh ra đời từ lúc đó Huyện Tân Hoá gồm phần đất thuộc tỉnh Gò Công hiện nay, mặc dầu nằm sát nách Định Tường, nhưng được sáp nhập vào tỉnh Gia Định do tình cảm và ý muốn của vua Thiệu Trị. Khi ký hàng ước 1862, cắt phân nửa Nam Kỳ nhường cho Pháp, trong đó có Gò Công, vua Tự Đức buồn rầu mất ăn mất ngủ mấy tháng liền. Vì thế chúng ta không lấy làm lạ khi triều đình bất chấp mọi tốn kém, gửi sứ giả (Phan Thanh Giản) qua Pháp điều đình xin chuộc lại. Năm năm sau, Pháp xua quân chiếm 3 tỉnh miền Tây còn lại. Bất chấp mọi tư cách pháp lý, Pháp tự ý chia Nam Kỳ thành những đơn vị hành chánh nhỏ (lúc đó gọi là sở tham biện) để cho dễ kiểm soát.
Về sau, Pháp đổi “Sở tham biện” thành “hạt” rồi “tỉnh”. Ba tỉnh Tân An, Gò Công, Mỹ Tho là do tỉnh Định Tường cũ tách ra. Ngay khi mới chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Gò Công, nhờ vị trí hiểm yếu, nhiều sông rạch chằng chịt, giao thông trắc trở, lại thêm rừng rậm hoang vu đã trở thành những cứ điểm kháng chiến cho các lãnh tụ Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, tri huyện Đỗ Trình Thoại...


Với non 30 km bờ biển, nép mình trên biển Đông Hải, tỉnh Gò Công nằm lọt trong lưu vực sông Vàm Cỏ, phía Bắc giáp tỉnh Chợ Lớn (huỷ bỏ sau năm 1945) trù phú và tỉnh Tân An lặng lẽ, phía Nam dựa vào tỉnh Mỹ Tho. Hai sông Cửa Tiểu, Cửa Đại (Tiền Giang) làm ranh giới thiên nhiên giữa Gò Công với Bến Tre, tỉnh Gò Công chiếm một diện tích khiêm nhường khoảng 600 km2. Hai sông Vàm Cỏ Đông (còn gọi là sông Bến Lức) và Vàm Cỏ Tây (còn gọi là Tân An hay Vũng Gù) phát nguyên từ biên giới Miên Việt, chạy qua Đồng Tháp Mười sình lầy, đun lát ngập phèn, nên dòng nước trong xanh nhìn thấy dưới đáy. Tới vị trí Bần Quỳ (cây bần ngả có vị thế như người đang quỳ gối) thuộc quận Cân Đước, tỉnh Vĩnh Long, thì cả hai sông hợp lại chảy qua địa phận Gò Công, Vàm Láng, đổ ra cửa Soài Rạp. “Soài Rạp”, sử cũ gọi “Lôi Lạp” là đất trước đây thuộc vương quốc Phù Nam (thế kỷ thứ 1 đến thứ 6 sau Tây Lịch), rồi sáp nhập vào Thuỷ Chân Lạp, tiền thân của Cao Miên ngày nay.


Tâm Bôn là đất Long An ngày nay. Chỗ hợp lưu hai sông: Bần Quỳ, còn nhắc lại sự tích ông Mai Bá Hương làm chức Xà-sai-ty dưới thời các Chúa Nguyễn ở Nam Hà, trên đường vận lương tiếp viện (1705), khi biết thuyền lương sắp rơi vào tay giặc, bèn ra lịnh đục thủng thuyền và chết theo thuyền. Để kỷ niệm và lưu truyền cái chết của trung nghĩa ấy, dân chúng gọi chỗ này là “sông Xá Hương”. Theo các thương nhân đi ghe thương hồ xuôi ngược Sài gòn về miền Tây và ngược lại, mỗi lần qua miễu Bần Quỳ, thường hay bị cướp chặn đường. Một nữ tướng cướp nổi danh hồi nửa thế kỷ trước đây còn gọi “Bà Nở” nghe đâu là con gái ông Quản Xô, cựu nghĩa binh thất trận về hùng cứ nơi đây. Hai bên bờ sông Vàm Cỏ từng in dấu vết chân của nghĩa quân Trương Công Định, Thủ Khoa Huân qua lại nhiều lần. Những địa danh như Trường Bình, Vàm Bao ngược, đám lá tối trời, đồn Kiểng Phước... đều nhắc lại những sự kiện lịch sử, những chiến công của nghĩa quân kháng Pháp hồi cuối thế kỷ 19:
Trên trại đồn điền hoa khóc chủ, Dưới Vàm Bao ngược sóng kêu oan!
(Nguyễn Đình Chiều)


Dõi theo bước Nam tiến, ông bà ta tới vùng đất mới thường chọn những giồng đất cao lập nghiệp: Gò Sơn quy, Gò Khổng tước Gò Tre, Gò Cát, giồng ông Huê, giồng Tháp, giồng ông Nâu... Cuối thế kỷ 19, Gò Công còn hoang vu, nhiều lùm bụi, chưa khai phá. Dọc theo bờ biển từ Vàm Láng xuống Tân Thành, Cửa Tiểu, là những rừng cây ngập mặn như đước, vẹt, xú, lá dừa đầy đặc, che khuất, kín đáo. Vì lẽ đó, các cuộc khỏi nghĩa chống Pháp của các sĩ phu miền Đông, sau khi thất bại đều rút về Gò Công để củng cố binh lực.
Khi những đợt di dân đầu tiên từ miền ngoài tới đây hồi cuối thế kỷ 17 tìm nơi cao ráo, nơi sông sâu nước chảy dựng nhà, phá rừng làm rẫy, làm ruộng. Địa danh “Gò Công” còn nhắc lại sự tích, một địa thế thiên nhiên “Gò đất cao ráo, có nhiều chim công làm ổ, sanh sôi nẩy nở từ thế hệ này qua thế hệ khác”. thuở đó, Gò Công chưa có đường bộ. Mọi việc giao thông, chuyên chở, đi lại đều dùng thuyền, tam bản, xuồng ba lá và ghe chài. Sông Tra, nối liền với sông Vàm Cỏ, là thuỷ lộ quan trọng giúp người Gò Công qua lại Tân An, Thủ Thừa, Mỹ Tho, lên Chợ Lớn, Sài gòn...


Vua Tự Đức (1848-83) cho đắp “con đường sứ” nối từ Gia Định xuống giồng Sơn Quy để liên lạc với quê ngoại. Người lớn tuổi ở đây thường nói rằng “nghe ông bà kể lại hồi đắp con đường này, bắt dân chúng phục dịch lao khổ để phá rừng, đào mương đáp lộ, bắc cầu trong hoàn cảnh đất đai hoang vu đầy muỗi mòng, rắn rít, thú dữ và sơn lam chướng khí, nên bị bịnh và chết rất nhiều”. Giữa thế kỷ 20, di tích “con đường sứ”, vẫn còn, là con đường trải đá nối tỉnh lỵ Gò Công ra bến Bắc Mỹ Lợi để đi Cần Giuộc, Chợ Lớn. Nhờ con đường sứ, nhiều công văn, tin tức liên lạc với quý tộc họ Phạm, được liên tục. Ngày nay, “con đường sứ” đã trở thành liên tỉnh lộ 5, nối Gò Công với Chợ Lớn, qua phà Mỹ Lợi.


Theo bản đồ hành chánh Nam Kỳ vào năm 1939, Gò Công có 5 tổng và 40 làng. Lúc đó, địa danh “quận” chưa xuất hiện. Nhiều tên tổng và làng còn tồn tại tới ngày nay như Hoà Đồng hạ, Hoà Đồng trung, Hoà Đông hạ... Tới những thập niên đầu thế kỷ 20, Gò Công hình thành các chợ ở đầu mối giao thông đường thuỷ, có những cửa hàng buôn bán cố định thay vì buôn gánh bán bưng và họp chợ phiên như trước kia ở Trung và Bắc. Chợ tỉnh lỵ Gò Công, có từ năm 1897. Về mặt giáo dục, cùng năm đó, Pháp mở trường tổng tại tỉnh lỵ và 4 tổng khác trong tỉnh, đặt tại các làng Tân Niên Tăng, Tăng Hoà, Vĩnh Lợi và Đồng Sơn.
Đến năm 1939, Gò Công bắt đầu phát triển các chợ: phố xá buôn bán sầm uất. Hàng hoá trao đổi lưu thông dồi dào. Theo quyển “Cẩm nang thời sự năm 1939”, Gò Công có các chợ sau:
- Chợ Giồng ông Huê (làng Vĩnh Lợi) - Chợ Tổng Châu (Tân Niên Tây) - Chợ Cửa Khâu (Tăng Hoà) - Chợ Giồng Nâu (Hoà Nghị) - Chợ Sáu Toàn (Bình Luông Đông) - Chợ Giồng Trộm (Long Thạnh) - Cho Mỹ Lợi (Bình Thạnh Đông) - Chợ Câu Ngang (Thạnh Nhứt) - Chợ Vàm Láng (Kiểng Phước) - Chợ Bến Vựa (Bình An) - Chợ Bình Xuân (làng Bình Xuân) - Chợ Dinh (làng Đồng Sơn).
Dưới thời Đệ nhất cộng hoà (1955-1963), tỉnh Gò Công sáp nhập vào tỉnh Định Tường. Năm 1963, Gò Công tách riêng thành lập tỉnh cũ như dưới thời Pháp thuộc, gồm 4 quận, đều bắt đầu bằng chữ “Hoà” như Hoà Tân, Hoà Lạc, Hoà Đồng, Hoà Bình...
Hình ảnh, sinh hoạt Gò công hồi đầu thế kỷ 20:


Căn cứ theo gia phả của bà Từ Dụ Thái hậu (1810-1902) thì tổ tiên bà từ Quảng Ngãi vào lập nghiệp tại Gò Công, thì vùng này hồi đó là sình lầu, rừng bụi hoang vu, chạy thẳng ra tới mé biển... Những chỗ trũng, thấp, nằm giữa các giồng đất được khai phá thành từng khoảng để làm ruộng, làm rẫy theo kiểu “tầm ăn lá dâu”. Hồi trước chỗ nhiều đun, lát, bùn, lầy gọi là “thảo điền”. Theo ông già bà cả kể lại rằng vùng này hồi trước nắng khô, nứt nẻ, nhiều hố sâu. Đến khi mưa xuống, nước ngấm vào, đất mềm mới cày bừa làm ruộng được. Mỗi lần cày ruộng, phải lùa trâu đực, móng chân cao cho khỏi mắc lầy, nếu không nhiều con trâu bị lún xuống bùn đi không nổi.
Đọc lại quyển “Địa bạ tỉnh Định Tường” viết từ thời Minh Mạng (1820-40) do ông Nguyễn Đình Đầu dịch và in năm 1994, chúng tôi thấy phần lớn đất đai ở Gò Công (giáp Định Tường) phần lớn do phụ nữ giữ quyền sở hữu. Điều đó chứng tỏ hồi xưa vai trò người phụ nữ thực sự nắm quyền sở hữu ruộng đất, quản trị kinh tế gia đình, là một nét đặc biệt trong vùng đất mới, xa kinh đô.


Muốn hình dung lại khung cảnh, sinh hoạt của Gò Công vào đầu thế kỷ, chúng tôi phải tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Rất may mắn, chúng tôi nhiều lần được hầu chuyện cùng các vị cao niên hồi còn bên trại tỵ nạn và ngay trên đất Mỹ thuộc lớp “cổ lai hy”, trong đó có những người họ Phạm, họ Nguyễn thuộc hạng danh gia thế tộc tại Gò Công nhiều đời. Chúng tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn ông cựu giáo sư Trần Văn Mạnh đã tặng quyển “Gò Công cảnh cũ người xưa” do tác giả Việt Cúc biên soạn rất quý.


Viết về Gò Công, chúng tôi tránh thói quen “lối mòn để đi”. Với chủ trương tân kiếm phát kiến những điều mới lạ, chúng tôi tìm tòi, ghi chép những chuyện xưa tích cũ mà chúng tôi có dịp nghe thấy, cũng những tài liệu rời rạc trong sách báo cũ mới. Nhờ đó chúng tôi có khá đầy đủ về “Trận bão năm Thìn (1904)”, chuyện Cậu Hai Miệng là những biến cố, những đề lài thời sự hấp dẫn trên dưới một thế kỷ nay. Dĩ nhiên những tài liệu ghi chép, hay “những quyển tự điển sống”, kể lại không có dịp được kiểm chứng, phán đoán, đánh giá như một người viết sử. Chúng tôi chỉ làm công việc của người kể chuyện mua vui cho độc giả mà thôi.
Cho tới những năm nửa đầu thế kỷ 20, Gò Công vẫn còn là một chỗ xa xôi, biệt lập vì địa thế cách trở, mặc dầu nó chỉ cách Sài gòn, Chợ Lớn chừng 50 Km đường chim bay.
Ở miền Nam, ngoài Thủ Đức là quê hương quý tộc họ Hồ (Bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng), thì Gò Công được các vua nhà Nguyễn đặc biệt chiếu cố. Hoàng đế Bảo Đại là vị vua đầu tiên và duy nhứt vào Nam nhiều lần, có đến thăm quê vợ Gò Công vào năm 1942. Ở đây nhiều dòng họ dược phong tước hiệu và đất ruộng theo chính sách thời phong kiến: cứ mỗi lược (công, hầu, bá, tử...) đều kèm thêm một sở đất, ruộng, để ăn lộc và con cháu thờ phượng. Trong một chỉ dụ trong Đại Nam Hội Điền có ghi:
“Nay trẫm theo chỉ xưa, nhớ người có công, nghĩ đến người có công lớn thì phải báo đáp, vậy gia ơn ruộng đất cấp cho họ làm tự điền, để con cháu đời đời giữ lấy cày cấy, tế lễ, chi dụng đèn nhang, làm cho sự ban thưởng được kéo dài về đời sau, tỏ cái ý ưu đãi và thương xót công thần”. Dưới chế độ nhà Nguyễn, ngoài “con đường sứ” nối từ Gia Định về Gò Công, tất cả mọi sự giao thông khác trong vùng, phải vận chuyển bằng đường thuỷ, Từ Gia Định về Gò Công, các ghe thuyền từ sông Vàm Cỏ rẽ vào sông Tra, vào rạch Băng đến Bình Xuân trước khi tới tỉnh lỵ Gò Công. Hồi đó các ghe chở gạo, ghe cá, ghe củi chạy buồm từ Gò Công qua vàm Bao Ngược (vượt sông Vàm Cỏ) để qua Cần Giuộc về Chợ Lớn. Từ phía Mỹ Tho đi Gò Công thường phải theo sông Cửa Tiểu vô vàm Giồng, tới rạch Vểnh Lợi, tiếp qua rạch Gò Công. Đường bộ nối Gò Công với các tỉnh và Chợ Lớn mới thành hình từ thập niên 1930 đều phải qua bắc: Bắc Chợ gạo nối Gò Công với Mỹ Tho, bắc Mỹ Lợi nối Gò Công với Cân Giuộc, Chợ Lớn. Từ bắc Chợ Gạo, xe đò phải chạy tiếp tới Thanh Thuỷ, Thạnh Nhựt, Gò Bầu trước khi vào tỉnh lỵ Gò Công...

Vì nằm trệch thuỷ trình về miền Tây và quốc lộ số 4, tỉnh lỵ Gò Công chưa bao giờ phát triển sung túc, sầm uất như Mỹ Tho, Cần Thơ. Con đường quan trọng nhứt trong tỉnh lỵ chạy từ Yên Luông Đông xuống chợ, phải qua một cây cầu bắc ngang con rạch nhỏ, phía trên lăng mộ của Đại tướng Trương Công Định. Lâu ngày, con rạch này cạn dần phải lấp đi, để mở rộng châu thành, và từ đó chỗ này gọi là “đường kinh lấp”, nay là đường Phạm Đăng Hưng. Sách “Cảnh cũ người xưa”, tác giả Việt Cúc là người cố cựu đất Gò Công kể lại:
“Như đường Sơn Quy vào chơ, phải qua cái cầu ngang, nằm phía dưới nhà Bà Phước sau này gọi Cầu Phủ. Bên chợ đi qua bên vựa cây lá, củi rào, đến đồn trân cũ, phải qua cái cầu ngang khác, nằm gần trường Nam Tiểu Học bây giờ, gọi là Cầu Quan. xóm Ngã Tư, từ phía dưới lộ me lên chợ, phải qua Cầu Huyện. Bình Công đi qua chợ, có cầu dọc ở phía trên gọi là cầu Lông Chiên (sau gọi là Long Chánh). Bên chợ thì cạn, nhiều bùn lầy, chạy từ cầu Long Chánh đến Cầu Phủ, gần cầu mới Tân Ban Nha. Những thuyền, tam bản từ các nơi về đậu ở bên chợ dỡ hàng lên bán như. gạo, củi, cây lá, tre, dừa chuối, khoai bắp, cùng súc vật gà heo... Thỉnh thoảng có một ít ghe thuyền từ Cần Giuộc hoặc Định Tường đến mua gạo, gà heo... chở đi bán các nơi khác...”. (Sách đã dẫn, trang 5)


Kinh Chợ Gạo, làm ranh giới cho hai tỉnh Gò Công, Mỹ Tho là đường thuỷ chiến lược nối từ sông Cửa Tiểu qua sông Vàm Cỏ. Kinh này được đào dưới thời Thống đốc Dupré, nên dược gọi “Canal Dupré”, rút ngắn thuỷ trình chuyên chở lúa gạo từ miền Tây về Chợ Lớn để thay thế cho kinh Bảo Định vừa hẹp vừa cạn. Kinh Chợ Gạo được đào ròng rã 2 tháng, vét một triệu mét khối đất, đấp cao hai bên bờ để làm lộ xe đi lại. Ngày ăn lễ lạc thành tổ chức hết sức trọng thể. Những nhà ở hai bên bờ kinh có treo cờ, giăng đèn, kết hoa, làm cổng chào và dặt bàn hương án. Chính Đô đốc Dupré, Thống đốc Nam Kỳ đến tham dự như một thách thức những sĩ phu đang ngưỡng vọng triều đình, cho rằng Pháp sắp bỏ miền Nam. Khi chiếc tầu sắt chở Dupré vừa đào kinh, hai bên có lính mã tà cỡi ngựa đi song song. Lại có thả khinh khí cầu để khoa trương kỹ thuật Tây phương. Hai năm sau, số lượng lúa gạo chở lên Sài gòn gia tăng gấp đôi, gấp 3 lần. Vào những năm cuối thế kỷ 19, hàng ngày có hàng trăm ghe chài qua kinh Chợ Gạo.

Dọc theo thuỷ trình về miền Tây trong phạm vi tỉnh Gò Công có nhiều chỗ giáp nước, những vị trí thuận lợi được hình thành các chợ để ghe thương hồ ghé mua bán, trao đổi hàng hoá như Chợ Gạo, chợ Mỹ Lợi, chợ Trường Bình. Hồi năm 1949, tôi được thân phụ cho theo ghe chài chở lúa từ Vũng Liêm về Chợ Lớn, tôi đếm được 24 cái chợ lớn nhỏ nằm trên thuỷ trình ghe chúng tôi đi ngang qua! Vàm Bao Ngược, thường có sóng lớn vào buổi chiều, thường gây mối ám ảnh cho các ghe thương hồ lục tỉnh. Câu hát xưa còn nhắc:
Anh đi ghe lúa Gò Công, Vô vàm Bao Ngược, bị giông (gió lớn) đứt buồm! Vàm Bao Ngược là chỗ nhận chìm biết bao nhiêu ghe xuồng qua lại mỗi khi chèo ra giữa sông bị sóng gió nổi lên thình lình. Chỗ khúc sông này tạo ra nhiều thảm cảnh thương tâm cho những người sống trên sông nước:
Thuyền anh cao, nhưng sóng cả nhận chìm, Em trông sông bao nhiêu khúc, nỗi niềm ruột đau.
Hò... ơi!


Vàm Bao Ngược là chỗ gặp gỡ của các dòng nước: nước sông Vàm Cỏ từ Tân An, Bến Lức đổ ra, kinh Chợ Gạo từ Mỹ Tho chảy xuống hợp với sông Tra từ Gò Công, tạo ra một khúc sông sâu, rộng minh mông. Bên này vàm Bao Ngược là bến phà (bắc) Mỹ Lợi đưa các xe đò, xe hàng và hành khách qua sông để đi Cần Giuộc, Chợ Lớn. Vì khúc sông nguy hiểm, nên mỗi lần sắp qua sông, bạn chèo ghe phải sửa soạn dầm, chèo, quai chèo, buồm cho vững chắc. Vàm Bao Ngược cũng là khúc sông lịch sử. Sau khi hạ đồn Kỳ Hoà (Chí Hoà), Pháp xua binh xuống đánh Mỹ Tho (lúc đó gọi là Định Tường). Các chiến thuyền theo cửa Sói rạp vô vàm Bao Ngược, rẽ vào sông Tra đánh Gò Công. Nghĩa quân của ta mai phục sẵn, đắp những mô đất cao tại dập Bà Thái, phía ngoài Bình Xuân chống trả mãnh liệt”. Vượt vàm Bao Ngược đã tới cửa ngỏ “đất kinh kỳ”. Nửa thế kỷ trước, đi ghe thường phải chèo hoặc chạy buồm nhờ sức gió, không có máy móc nhiều như bây giờ, do đó bạn chèo rất mệt mỏi, trông cho mau tới chỗ để được nghỉ ngơi, ăn uống, mua sắm và đợi con nước để tiếp tục lên đường.


Hồi trước, ghe thương hồ xuôi ngược lục tỉnh phải qua Chợ Đệm, nằm ở phía dưới cầu Bình Điền ngày nay. Qua khỏi Bến Lức, men theo con nước thuận, các ghe chèo luôn một mạch tới “ba Cụm”. Tại chỗ này là nơi giáp nước: sông Chợ Đệm chảy ra, sông Bến Lức chảy vào. Hai dòng nước gặp nhau, là cái bến tạm để ghe xuồng đậu nghỉ, chờ con nước sau. Ba Cụm nổi danh với “bối”, một thứ ăn cắp vặt trên sông. Theo kinh nghiệm, những người chèo ghe theo nước lớn vô Ba Cụm, phải “canh” làm sao cho khi vừa tới chỗ giáp nước, thì nước phía bên kia cũng “giựt ròng”, để chèo luôn cho nhẹ. Các ghe buôn từ lục tỉnh, mỗi lần qua Chợ Đệm thường ghé lại mua đệm may buồm, mua bao cà ròn, mua nóp để ngủ thay mùng.


“Ghe Cần Đước” một thời nổi tiếng cả Nam Kỳ, có mũi quệt cao, cản nước, đi chậm, cặp mắt xách ngược như mắt Quan Công. Tương truyền ghe Cần Đước do thợ người Minh Hương, con cháu đám di thần nhà Minh Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn ở Vũng Gù, Cù Úc, Mỹ Tho đóng. Ghe chài Cần Đước đi từ từ, đi tới đâu cũng nhìn thiên hạ như thách thức, du côn! Khi việc chuyên chở đường sông còn thạnh hành, bạn chèo ghe chài Cần Đước thường là dân tứ chiếng, giỏi võ nghệ. Một lần đoàn ghe chài Cần Đước “đụng” với đám cướp ở Tân Châu để cứu giá đoàn ghe thương hồ lục tỉnh, làm cho giới sống trên sông nước miền Nam còn nhớ mãi.

Nước chấm của Hoàng gia

Ở Gò Công mấy trăm năm qua nói đến nước chấm người ta thường nhắc một đặc sản thượng hạng, từng được dọn trong những bữa yến tiệc trong Hoàng triều từ thời Thiệu Trị nên được dân gian xưng tụng là "nước chấm của hoàng gia" dù xuất thân của món ngon này hết sức dân dã, đó là mắm tôm chà.


Ông Cao Văn Hổ (Năm Hổ) chủ lò mắm tôm chà Kim Sa (thị xã Gò Công) bên mẻ mắm

Mắm tôm chà Gò Công xuất hiện từ bao giờ, không ai còn nhớ rõ. Nhưng theo ông Cao Văn Hổ (Năm Hổ), chủ lò mắm Kim Sa ở số 141 đường Phạm Ngũ Lão (khu phố 3 phường 2 thị xã Gò Công), mắm tôm chà chắc chắn phải có mặt trên đất Gò Công trước khi Thái hậu Từ Dũ được tiến cung. Bà đã mang theo món chấm độc đáo này, có nghĩa là tuổi đời của món mắm đặc sản đã có dư mấy trăm năm. Tới bây giờ cũng không còn ai biết bậc hiền nhân nào đã "sáng chế" ra loại nước chấm độc nhất vô nhị này, nhưng công thức sản xuất thì cả 5 lò mắm ở thị xã Gò Công hiện nay đều tuân thủ như nhau: muốn có mắm ngon thì nguyên liệu phải là tôm bạc đất chính cống quết nhuyễn với các phụ liệu là tỏi, ớt, muối, đường đem phơi 4 nắng. Sau đó chà lấy tinh chất của tôm và phụ liệu đem phơi tiếp 7 nắng nữa mắm mới thật chín, lên màu đỏ au bắt mắt. "Công thức chung là vậy nhưng các lò mắm đều có bí quyết riêng khi pha chế thịt tôm và các phụ liệu nên hương vị mắm đều khác nhau. Đặc biệt mắm tôm chà chỉ có thể phơi nắng cho chín, không thể dùng lò sấy khô", ông Năm Hổ nói.

Khác hẳn các loại mắm ngon nổi tiếng của Nam bộ như mắm lóc, mắm sặt, mắm trèn, mắm cá linh… ngoài việc ăn sống còn có thể đem kho hoặc chưng hay chế biến thành nhiều món khác (tỉ như nấu lẩu), mắm tôm chà Gò Công chỉ dùng duy nhất một mục đích: pha với tỏi, ớt, chanh, đường để được một thứ nước chấm thượng hảo hạng, ăn với bánh tráng rau sống, thịt luộc, tôm luộc thì… hết chỗ chê! Chưa từng nghe ai nói đã đem mắm tôm chà nấu lẩu hay chưng, kho như mắm linh, mắm lóc. Nhưng ở Gò Công người ta vẫn thường thấy mấy bậc kỳ lão khi nhậu vô vài ly rượu đế với món ăn có nước chấm là mắm tôm chà thì khoái chí vỗ đùi cười ha hả kể cho con cháu hậu sinh nghe rằng, thời Pháp thuộc mấy ông quan địa phương muốn lấy lòng các quan Tây nên buộc dân chúng xứ Gò phải làm mắm tôm chà để đem cống nạp. Không biết mấy ông quan bản xứ hướng dẫn quan Tây ăn mắm ra sao, chỉ thấy ông Tây bà đầm thường quệt mắm tôm chà nguyên chất vào miếng bánh mì xăng-quýt thay bơ, phó-mát vừa ăn vừa xuýt xoa khen "très bien!" rần trời, báo hại đám con dân chạy kiếm tôm bạc đất làm món ngon cống nạp không kịp thở. Cũng có người nói, giữa trưa đói bụng mà bốc một cục cơm nguội quệt chút mắm tôm chà nguyên chất bỏ vào miệng thì không còn gì tuyệt bằng. Nhưng mấy bậc bô lão cho rằng ăn như vậy thiệt phàm phu tục tử…!



Mắm tôm chà vô keo chuẩn bị xuất xưởng


Mặc dù có tuổi đời mấy trăm năm nhưng mắm tôm chà Gò Công chỉ mới được dân sành ăn xa gần biết tiếng chưa đầy chục năm gần đây. Lão tiền bối Năm Hổ kể rằng, trong những câu chuyện do ông bà nhiều đời truyền lại đều có chi tiết: mắm tôm chà ngày xưa được người Gò Công xem là món quà quê trân quý, chỉ dùng để biếu tặng mỗi dịp lễ tết hoặc sử dụng vào dịp giỗ chạp, không ai làm mắm để bán. Ông Năm Hổ cũng không ngoại lệ, dù nghề làm mắm tôm chà là gia truyền nhưng cách nay 20 năm gia đình ông mỗi năm chỉ làm vài ký để biếu bà con họ hàng ăn lấy thảo, không xem nghề này là kế sinh nhai. Mãi đến khi tỉnh Tiền Giang chọn mắm tôm chà là một món ngon thuộc hàng đặc sản cần phải giữ gìn, phát triển để phục vụ du lịch và quảng bá trong thiên hạ thì nghề làm mắm tôm chà ở Gò Công mới được "thương mại hoá". Nhưng đến nay xứ Gò Công cũng chỉ có 5 cơ sở sản xuất, mỗi năm tung ra thị trường vài ngàn ký. Ông Năm Hổ nói, năm nào Tết Nguyên đán Việt kiều cũng thuê xe xuống Gò Công đặt làm mắm tôm chà để mang đi, ăn dần cho đỡ nhớ quê.

Mở được cửa hàng bán loại nước chấm thượng hảo hạng này ở nước ngoài là chuyện ông Năm Hổ luôn ao ước. "Tui đi du lịch nhiều nước rồi, đi tới đâu cũng lận theo keo mắm tôm chà để chào hàng, bà con mình chịu quá. Có điều, tới lúc mở được cửa hàng ở nước ngoài, đơn đặt hàng nhiều quá thì không biết làm sao có đủ tôm bạc đất để làm mắm à nghe", ông Năm Hổ lo xa.

Theo SGTT

GÒ CÔNG - kháng chiến (12/1946 - 4/1951)




Đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân cả nước bùng nổ. Tình hình Mỹ Tho, Gò Công từ đầu tháng 12-1946, các đồn nhỏ, lẻ của địch ở nông thôn và vùng mới lấn chiếm, chúng đều phải rút bỏ để tập trung lực lượng ra Bắc bộ. Địch tỏ ra lúng túng khi phải co lại phòng ngự để củng cố lực lượng ở các cứ điểm và các trục lộ giao thông.


Kể từ sau kháng chiến toàn quốc bùng nổ, phần lớn các tín đồ gia nhập vào các đoàn thể yêu nước như Công giáo Cứu quốc, Phật giáo Cứu quốc, đã vào Mặt trận Việt Minh, có cảm tình với cách mạng và có nhiều đóng góp cho kháng chiến. Ngược lại, một số chức sắc bên trên của đạo Cao Đài và đạo Hòa Hảo bị thực dân Pháp mua chuộc đã tuyên truyền kích động trong tín đồ làm cho tình hình ở một số nơi trong tỉnh trở nên phức tạp. Tuy nhiên, đa số tín đồ có ý thức dân tộc, khiến bọn đầu sỏ làm tay sai cho Pháp, phải giảm bớt sự hung hăng ở những vùng tập trung của Cao Đài, Hoà Hảo.

Tháng 11-1946, Khu 8 tổ chức hội nghị quân sự tại Ấp Bắc, xã Tân Phú, huyện Cai Lậy, đề ra Nghị quyết phát động chiến tranh nhân dân rộng khắp và thống nhất chỉ huy trong toàn Khu. Tỉnh, huyện thành lập Ban chỉ huy quân sự, tiến hành xây dựng, hợp nhất, củng cố lực lượng vũ trang các cấp để đủ sức đánh địch.

Thực hiện lời kêu gọi “toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị của Trung ương Đảng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy Khu 8, Tỉnh ủy Mỹ Tho, Gò Công đã kịp thời đề ra chủ trương:

- Về chính trị: củng cố cơ sở Đảng, phát triển đảng viên, kiện toàn các cấp ủy từ huyện đến xã. Nhanh chóng phục hồi phong trào, củng cố lại hệ thống tổ chức và hệ thống chính quyền từ tỉnh xuống huyện, xã. Đối với các đoàn thể cứu quốc, chú trọng phát triển về chất lượng, trên cơ sở đó phát triển Đảng. Mở các đợt học tập, giáo dục các tín đồ tôn giáo và có chính sách đối với tôn giáo, nhất là Cao Đài ở Gò Công và Phú Mỹ (Châu Thành). Kiên quyết chống phá âm mưu địch lợi dụng tôn giáo. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, mở rộng chính sách mặt trận để tập hợp các lực lượng kháng chiến. Mở các lớp đào tạo cán bộ mặt trận để xây dựng phong trào. Phát triển công tác địch vận. Chỉ đạo cơ sở bám sát cơ sở, xây dựng cơ sở quần chúng. Củng cố các tổ chức công đoàn, thực hiện chính sách khen thưởng và kịp thời phát động các phong trào kháng chiến.

- Về kinh tế: thực hiện chiến lược bao vây kinh tế địch, bảo vệ kinh tế vùng giải phóng, thực hiện chính sách tạm cấp ruộng đất cho những người không đất và thiếu đất, nhằm động viên mọi người “nhường cơm sẻ áo” để giải quyết vấn đề người cày có ruộng. Thành lập Ban kinh tế tài chính, đánh thuế xuất nhập thị và xây dựng tài chính cung ứng cho kháng chiến.

- Về quân sự: phân vùng chiến lược để có những kế hoạch phát triển lực lượng thích hợp cho từng vùng; xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, nhất là xây dựng các đội vũ trang tuyên truyền và du kích liên xã để phát triển chiến tranh du kích. Thành lập các huyện đội, thị đội và bộ đội địa phương huyện. Lập các mặt trận và mở các chiến dịch phá hoại, chống kế hoạch mở rộng vùng chiếm đóng của địch. Đẩy mạnh công tác trừ gian, diệt tề, thanh trừ bọn cướp bóc, tổ chức các đội canh gác. Đẩy mạnh công tác phá hoại giao thông, bao vây đồn bót, phá rối địch tại các vùng chúng đóng quân. Kiên quyết bảo vệ khu căn cứ.

- Về văn hóa xã hội: mở rộng bình dân học vụ, xây dựng nông thôn mới, nếp sống mới, phát triển dân y. Đầu năm 1947, địch tăng cường đàn áp, ra sức khủng bố, xây dựng thêm đồn bót, thường xuyên tuần tra kiểm soát vùng đô thị và ven đô thị; mở nhiều cuộc ruồng bố các xã vùng ven; khủng bố, ngăn cấm, bắt bớ những người chúng tình nghi có quan hệ với kháng chiến.

Đầu năm 1947, tỉnh Mỹ Tho thành lập Tỉnh đội dân quân do đồng chí Đoàn Hữu Huynh làm Tỉnh đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Thịnh làm Tỉnh đội phó và thành lập Ban phá hoại của tỉnh trực thuộc Ban quân sự tỉnh do đồng chí Nguyễn Tấn Thành, ủy viên quân sự làm Trưởng ban. Các huyện, xã đều thành lập Ban phá hoại.

Sau khi thành lập, tỉnh điều đại đội dân quân xuống phối hợp với Quốc vệ đội luồn sâu xuống các xã phá tề, diệt ác, trấn áp bọn lưu manh, trộm cướp, như vụ tảo trừ bọn Huề khói, làm chấn động giới lưu manh trộm cướp và tay sai; một số vì hoảng sợ đã ra tự thú với chính quyền cách mạng, còn một số bỏ trốn đi xứ khác.

Giữa tháng 1-1947, trung đội Quốc vệ đội đã phục kích diệt 1 trung đội địch tại Tân Thành, thu nhiều súng. Sau đó, trung đội 9 tổ chức trận đánh chống tiểu đoàn lính Âu -Phi đi càn tại Long Thạnh (Gò Công), có xe bọc thép và pháo binh yểm trợ. Trận đánh diễn ra một ngày, kết quả ta tiêu diệt và làm bị thương gần 10 tên.

Chỉ trong hai tháng đầu năm 1947, lực lượng vũ trang Khu 8 phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh Mỹ Tho, Gò Công ra quân đánh thắng một số trận, làm hoang mang tinh thần binh lính địch như trận Giồng Đình (13-1-1947), Cổ Cò (22-1-1947), Long Thạnh (10-3-1947), trận xã Bình Thành (3-1947).

Chi bộ đặc biệt của Thị xã Mỹ Tho kịp thời củng cố các tổ chức cơ sở Đảng, phát triển thêm đảng viên, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc, xây dựng công đoàn cơ sở Hãng Xáng, Xóm Dầu, Xóm Cá; xây dựng các lực lượng nội - ngoại thành như du kích liên xã, tự vệ các xã ngoại thành, đội tự vệ chiến đấu bí mật, đội đường phố, xóm lao động nội thị... thành lập nghiệp đoàn với những người cùng ngành nghề như thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ... gắn liền với mở rộng khối đoàn kết dân tộc, đặc biệt là tập hợp được giới học sinh, trí thức ủng hộ kháng chiến.

Ban phá hoại của tỉnh đã huy động hàng ngàn quần chúng ở dọc tuyến lộ Đông Dương, tỉnh lộ 24 (Quốc lộ 50)... đốn cây, xô ngã cột điện, đắp mô đất trên lộ... nhằm gây cản trở giao thông của địch; đặc biệt là phá hoại đường ray xe lửa Mỹ Tho - Sài Gòn làm ách tắc giao thông của địch. Du kích các xã ven lộ đẩy mạnh hoạt động bắn tỉa, gây tâm lý bất an cho địch khi vận chuyển trên các tuyến giao thông. Trong báo cáo từ ngày 15-2 đến 15-3-1947, tên Pièrre Metin than phiền rằng: “Sự khủng bố cứ tiếp tục diễn ra dài theo đường giao thông nhằm ngăn chặn việc tiếp tế thực phẩm cho các chợ ở nội địa và cho khu đông dân Sài Gòn - Chợ Lớn”.

Tháng 3-1947, Tỉnh ủy Gò Công tổ chức cuộc họp ở Cả Thu (xã Phú Thạnh Đông) chủ trương thành lập “Hội phá tề” ở các địa phương, nhằm lấy tình cảm và tinh thần yêu nước để thuyết phục những người trong hội tề giác ngộ, không làm tay sai cho thực dân Pháp. Qua một thời gian hoạt động, cơ sở có những chuyển biến tích cực. Phần đông hội tề không làm việc cho địch, một số người bỏ đi nơi khác hoặc lên Sài Gòn làm ăn. Một số tên ngoan cố bị ta cảnh cáo, hoảng sợ co lại và hạn chế hoạt động.



Sau hơn ba tháng phát động phong trào kháng chiến, hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công đã xây dựng, phát triển được lực lượng vũ trang các cấp, tổ chức cơ bản có hệ thống các tổ chức đoàn thể xã hội, ổn định bộ máy hoạt động và phong trào cách mạng của quần chúng. Cấp ủy Đảng các cấp vừa tổ chức học tập các chủ trương, chính sách của Đảng, vừa đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước trong nhân dân để nâng cao lòng căm thù địch sâu sắc, xây dựng ý thức phòng gian bảo mật, bất hợp tác với địch và ủng hộ vật chất, tinh thần cho kháng chiến. Đây là kết quả của sự vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, được tỉnh Mỹ Tho - Gò Công cụ thể hóa thành hành động cách mạng, từng bước đi vào cuộc kháng chiến với lòng tin quyết thắng.

Giữa năm 1947, tình hình có những chuyển biến lớn. Quân Pháp co lại để bảo vệ những vùng vừa mới chiếm, tuyển mộ thêm ngụy quân, mở thêm hệ thống đồn bót, tháp canh, nhất là ở các tuyến giao thông thủy, bộ để kiểm soát dân, củng cố lại bộ máy chính quyền huyện, xã và mở nhiều cuộc hành quân, càn quét vào vùng giải phóng để tiêu diệt lực lượng cách mạng. Ngoài ra, chúng còn dùng vật chất mua chuộc những chức sắc trong đạo Cao Đài, Hoà Hảo và thành lập lực lượng vũ trang Cao Đài, Hòa Hảo để chống lại lực lượng kháng chiến.

Để đối phó với âm mưu của địch, lãnh đạo hai Tỉnh Mỹ Tho, Gò Công khẩn trương đề ra chủ trương trong giai đoạn cách mạng mới: đưa cán bộ về bám trụ địa phương, xây dựng lại cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng ở những vùng tạm bị chiếm nhằm đẩy mạnh phong trào.

Tháng 4-1947, Tỉnh ủy Gò Công tổ chức hội nghị tại Bình Phú Đông để bàn việc tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các đoàn thể, cơ quan, lực lượng vũ trang. Hội nghị đã bầu ban chấp hành chính thức, đồng chí Nguyễn Văn Hợp được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Sau đó các quận ủy khẩn trương thành lập để lãnh đạo phong trào kháng chiến ở địa phương. Cuối tháng 4-1947, Gò Công thành lập Mặt trận Liên Việt - Việt Minh do đồng chí Nguyễn Văn Côn làm Chủ nhiệm. Từ đó, Mật trận Liên Việt - Việt Minh các quận cũng được thành lập. Tỉnh ủy chỉ đạo thành lập các cơ quan như: Toà án quân sự, Ty Công an, Giáo dục, Y tế và các ngành, các đoàn thể trong hệ thống chính quyền cách mạng. Ngày 24-4-1947, Hội Liên Việt quận I ra đời.

Cuối tháng 4-1947, Tỉnh ủy Gò Công tổ chức Đại hội Ban vận động phụ nữ cứu quốc để đánh giá vai trò của phụ nữ tham gia trong các hoạt động cách mạng, đặc biệt là công tác ủng hộ cách mạng. Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Thị Ngọc Việt làm hội trưởng phụ nữ, đồng chí Tuyết Thanh làm hội phó.

Ở tỉnh Mỹ Tho, các Huyện triển khai một loạt công tác về tổ chức, dân vận và công tác kinh tế, tiến hành cho cán bộ, đảng viên trở lại địa phương xây dựng và củng cố cơ sở Đảng và phong trào quần chúng.

Mùa khô năm 1947, huyện ủy Chợ Gạo tổ chức hội nghị mở rộng nhằm đẩy mạnh phong trào kháng chiến, xây dựng các đoàn thể và lập các ban đặc biệt hoạt động trong thị trấn Chợ Gạo và khu phố Ông Văn.

Giữa năm 1947, để tăng cường sức mạnh cho cuộc kháng chiến, Tỉnh ủy Gò Công đã giúp đỡ đảng Dân chủ Việt Nam tỉnh Gò Công tổ chức đại hội. Nhiều cán bộ, đảng viên đảng Dân Chủ đã xin gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Gò Công, được Khu ủy đồng ý kết nạp và trở thành cán bộ ưu tú trong chiến đấu và công tác cách mạng.

Về văn hoá, Ban vận động đời sống mới tỉnh và các quận của Gò Công hoạt động đều đặn. Các lớp bình dân học vụ, các hình thức xóa mù chữ đều được nhân dân đồng tình và tích cực tham gia. Đến giữa năm 1947, tỉnh đã xây dựng được trạm quân y tại xã Lý Nhơn do đồng chí Mười Hai phụ trách. Phong trào sinh hoạt theo đời sống mới, đã giảm dần tệ nạn xã hội ở nông thôn.

Những tháng đầu năm 1947, công tác phá hoại giao thông liên tiếp diễn ra ở nhiều nơi. Theo báo cáo của địch từ 15-4 đến 15-5-1947 thì “các cuộc tấn công phá hoại các con đường và phương tiện giao thông cứ tiếp diễn. Không ngày nào không xảy ra một chiếc xe vận tải bị đốt, một con lộ, một chiếc cầu và đường sắt bị phá hoại. Trục giao thông Sài Gòn - Mỹ Tho luôn bị cắt đứt, gần như ngày nào cũng có nhiều xe vận tải lương thực về Sài Gòn bị tấn công và phá hủy. Tình hình này tạo nên sự tăng giá quá đáng ở các đô thị lớn. Đường giao thông luôn là cái đích chú ý của Việt Minh, những vụ phá hoại quan trọng, nhiều lần bị đặt mìn đều xảy ra ở đoạn đường Mỹ Tho - Vĩnh Long. Đường sắt Mỹ Tho – Sài Gòn luôn luôn bị gián đoạn tiếp theo những cuộc phá hoại đặc biệt nghiêm trọng. Hệ thống viễn thông thì ban ngày phải sửa lại những gì đã bị phá hủy ban đêm…”(1).

Về nông nghiệp, huyện Cái Bè phát động phong trào hiến điền đối với điền chủ, động viên điền chủ có nhiều ruộng đất tự nguyện giao đất, để chính quyền cách mạng chia cho nông dân không ruộng hoặc ít ruộng. Đối với địa chủ còn phát canh, ta vận động họ giảm tô đối với tá điền, hoặc không thu tô đối với những tá điền quá nghèo. Chính quyền cách mạng quyết định tịch thu hàng trăm mẫu (hécta) ruộng của các điền chủ như: Hai Trinh (xã Mỹ An), Cậu 17 (xã Thiên Hộ), điền chủ người Pháp Brondeau (xã Đốc Binh Kiều)… chia cho hàng trăm hộ nông dân. Đối với những điền chủ tản cư nhưng không có nợ máu với nhân dân, chính quyền cách mạng quản thủ số ruộng đất của họ và tạm giao cho nông dân sản xuất và đóng thuế cho cách mạng.

Từ đầu tháng 5 - 1947, Pháp tiến hành nhiều trận càn lớn vào các vùng tập trung tín đồ Cao Đài nhằm lôi kéo họ vào thị xã, thị trấn để dễ kiểm soát. Nắm được âm mưu của địch, Tỉnh ủy Gò Công chủ trương vận động nhân dân tản cư ra vùng kháng chiến để tránh các cuộc càn quét của địch. Tháng 10-1947, Tỉnh ủy Gò Công mở đợt học tập dành riêng cho tín đồ Cao Đài để họ nhận thức được âm mưu của địch lợi dụng tôn giáo thực hiện kế hoạch đôn quân bắt lính của chúng. Ta cũng cử cán bộ nòng cốt vào các trại Bình Thành, Tân Bình Điền, Phú Thạnh Đông vận động tín đồ ra vùng giải phóng. Những hành động do thám, lấy kho lúa ở đầu cầu Long Chánh làm tổng hành dinh cho quân đội Cao Đài Tây Ninh, Gò Công, những chiến dịch tuyên truyền với khẩu hiệu “Việt Minh vô thần” nhằm chia rẽ những người không theo đạo và người có đạo; những vụ bắt cóc thanh niên, bắt giết cán bộ, khủng bố nhân dân, đóng đồn, thu lúa… của những kẻ cầm đầu làm tay sai trong đạo Cao Đài dưới sự đạo diễn của Pháp đã bị ngăn chặn. Nhiều tín đồ sau khi được học tập, giáo dục đã giác ngộ, không để bị địch lợi dụng và yên tâm làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, ở Phú Mỹ (Châu Thanh), Ba Dừa (Cai Lậy), những người cầm đầu trong giáo phái Cao Đài Tây Ninh trắng trợn gom dân lập khu căn cứ, nhất là ở Phú Mỹ, chúng bắt hàng chục cán bộ và đồng bào ta đem chặt đầu bêu cọc; dã man hơn, trong lúc đóng đồn ở Phú Mỹ, sau khi bắn chết cán bộ ta, chúng đem xẻ thịt rồi ép nhân dân mua để khủng bố tinh thần.

Ngày 2-9-1947, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ phối hợp với tỉnh Mỹ Tho tổ chức cuộc triển lãm về thành tích quân sự, kinh tế, giáo dục, văn hoá, y tế trong 2 năm mà quân và dân Nam bộ đã đạt được, tại chợ Cây Đa (xã Thiên Hộ, huyện Cái Bè); có hàng trăm đại biểu thuộc các tầng lớp trí thức, tôn giáo, đảng phái từ Sài Gòn, Sa Đéc và hơn 10.000 người đến dự mit-tinh để có dịp tìm hiểu thêm về cuộc kháng chiến và ý chí bảo vệ nền độc lập của quân dân Nam bộ.

Tháng 12-1947, Gò Công đã xây dựng được 4 quận ủy và đi sâu chỉ đạo công tác địch vận, vận động nhân dân tham gia vào Mặt trận Liên Việt và lực lượng vũ trang. Công tác xây dựng Đảng ở cơ sở được củng cố, hầu hết các xã đều có chi bộ.

Lực lượng vũ trang phát triển mạnh nên Khu 8 quyết định xây dựng thành tiểu đoàn. Tháng 10-1947, Tiểu đoàn 305 Gò Công được thành lập, do đồng chí Nguyễn Văn Sĩ làm Tiểu đoàn trưởng.

Cuối năm 1947 đầu năm 1948, Pháp buộc phải chuyển hướng chiến tranh từ “thắng nhanh” chuyển sang “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, “dùng người Việt đánh người Việt”, từ mở rộng chiến tranh sang củng cố vùng chiếm đóng, tăng cường phá hoại các cơ sở kinh tế, chính trị của ta; đồng thời tổ chức hệ thống đồn bót, tháp canh để kiểm soát vùng nông thôn và bảo vệ các đường giao thông.

Đầu năm 1948, cơ sở chính trị của ta được xây dựng ở hầu hết các vùng địch tạm chiếm, nhất là ở các thị xã, thị trấn trong tỉnh Mỹ Tho, Gò Công. Phong trào cách mạng được phát động và nhiều cuộc nổi dậy diễn ra. Nhiều thanh niên tự nguyện gia nhập đội du kích. Nhiều trí thức tham gia công tác tuyên truyền. Nhiều người thoát ly đi vào vùng căn cứ kháng chiến.

Tỉnh Mỹ Tho đưa cán bộ, đảng viên đến các khu tập trung tôn giáo của huyện Châu Thành (Đông Hòa, Vĩnh Kim, Long An) để xây dựng cơ sở cách mạng, làm công tác tư tưởng để quần chúng giác ngộ, đấu tranh chống địch. Nhiều cơ sở bí mật trong các khu này đã ủng hộ, giúp ta mua xăng, dầu, giấy, mực, thuốc chữa bệnh gửi ra vùng căn cứ kháng chiến.

Nhiều xã trong tỉnh đã tổ chức nhiều cuộc vận động binh lính địch chống ruồng bố, chống khủng bố nhân dân. Nhiều nơi, quần chúng nắm được chỉ huy hoặc lính các đồn bót, như bót ngã tư Quản Oai, bót kinh Mười, bót Cặp Rằn Núi, đồn Cống Trâu, đồn kinh Tây, các bót lính Hòa Hảo đóng ở kinh 12 (huyện Cai Lậy).

Ở Gò Công, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực Khu 8, tổ chức nhiều đợt chống càn qui mô lớn ở Tân Phước, Gia Thuận, tiêu diệt hàng trăm tên địch. Mặt khác, lực lượng quốc vệ đội cùng du kích, tự vệ mật ở thị xã tấn công một số bót trong thị xã, địch buộc phải rút quân về giải vây cho thị xã.

Cuối năm 1948, Thị ủy Mỹ Tho được thành lập và 4 xã: Tân Mỹ Chánh, Mỹ Phong, Đạo Thạnh, Trung An (của huyện Chợ Gạo) cũng được nhập vào Thị xã Mỹ Tho để thuận lợi trong việc lãnh đạo các phong trào trong đô thị. Ở Gò Công, Khu ủy cử đồng chí Đỗ Phát Quang bổ sung vào Tỉnh ủy và giữ chức Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh. Bộ máy hành chính Gò Công được củng cố đến cơ sở.

Mặt trận Liên Việt tỉnh Mỹ Tho, Gò Công và các quận huyện mở rộng hoạt động, thu hút được số đông nhân sĩ, trí thức, các vị chức sắc có uy tín trong đồng bào tôn giáo tham gia kháng chiến, tạo nên khối đoàn kết rộng rãi trong nhân dân.

Năm 1949, đồng chí Hồ Văn Châu được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Gò Công. Hàng trăm thanh niên ưu tú trong công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, lực lượng vũ trang được kết nạp vào Đảng.

Năm 1949, Tỉnh ủy Mỹ Tho tổ chức cho cơ sở học tập tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, đạo đức cách mạng, tác phong công tác của Đảng.

Cơ sở công đoàn bí mật ở Xóm Dầu và Trưng Vương, Thị xã Mỹ Tho, nhiều lần tập hợp quần chúng để tuyên truyền Điều lệ công đoàn, tuyên truyền đường lối của Đảng và vận động nhân dân ủng hộ cách mạng, bảo vệ cán bộ hoạt động hợp pháp. Mở lớp bồi dưỡng cho công đoàn viên tại ấp Mỹ Lương (xã Mỹ Phong, Thị xã Mỹ Tho) để nâng cao trình độ giác ngộ, tinh thần quyết chiến quyết thắng của giai cấp công nhân.

Về nông nghiệp, tỉnh Mỹ Tho chủ trương lấy đất công điền, ruộng đất của địa chủ hiến điền cho kháng chiến và quản thủ ruộng đất của Việt gian, địa chủ đi vắng chia cho dân cày nghèo. Ở vùng tự do, chính sách ruộng đất được phát động giảm tô, vận động địa chủ san sẻ bớt ruộng cho những gia đình thiếu ruộng. Từ giữa năm 1947, về cơ bản ta đã giải quyết xong về ruộng đất, làm cho nhân dân phấn khởi, hăng hái tăng gia sản xuất, góp phần xây dựng kinh tế kháng chiến ở vùng tự do. Đến năm 1950, chủ trương tạm cấp đất của tỉnh được thực hiện cả trong vùng tạm bị chiếm. Khẩu hiệu “đoàn kết với trung - bần - cố nông, lôi kéo phú nông, tranh thủ trung lập địa chủ” trở thành chính sách về ruộng đất và chủ trương tập hợp lực lượng kháng chiến của Đảng bộ. Từ thí điểm việc triển khai tạm cấp đất ở xã Nhị Bình đạt được thắng lợi, ta đã nhân ra toàn tỉnh. Số ruộng đất của các địa chủ lớn, phản động và số ruộng đất quản thủ của địa chủ đi vắng giao cho Hội đồng tạm cấp đất cho nông dân, đồng thời vận động số địa chủ có cảm tình với cách mạng hiến điền và giảm 50% mức thu tô. Ta giải quyết nhiều vấn đề trong việc phát triển sản xuất, tạo điều kiện củng cố lại cơ sở cách mạng trong quần chúng, nhất là vùng tạm bị chiếm. Diện tích ruộng đất và năng suất trong năm 1950 tăng lên rõ rệt. Đời sống nông dân được cải thiện, nông dân gắn bó với phong trào kháng chiến, tự nguyện đưa con em tham gia lực lượng vũ trang, làm nghĩa vụ đóng góp cho kháng chiến và phục vụ các chiến trường. Chủ trương tạm cấp đất của tỉnh được áp dụng đối với cả những gia đình binh sĩ ngụy và đã làm cho họ xúc động, biết ơn Đảng, chính quyền cách mạng. Nhiều cha mẹ, vợ con của binh sĩ ngụy đã vào đồn bót tuyên truyền chính sách của Đảng và vận động chồng con trở về với cách mạng. Thắng lợi của chủ trương cấp đất là không riêng về mặt kinh tế mà cả về chính trị và địch vận.

Tỉnh Mỹ Tho phát động phong trào xây dựng kinh tế tự túc, tự cấp. Các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến huyện, xã, cán bộ và chiến sĩ tự trồng trọt, chăn nuôi, không nhận lương để giảm bớt gánh nặng cho nhân dân. Ủy ban Kháng chiến và Ban Kinh tế tài chính lấy vùng Đồng Tháp Mười làm nơi phát triển các ngành kinh tế thời chiến.

Năm 1948, hàng trăm gia đình yêu nước và hàng ngàn quần chúng lao động trong tỉnh lên Đồng Tháp Mười để tăng gia sản xuất, góp phần gây quỹ kháng chiến. Năm 1949, tỉnh đã có 2 khung dệt vải, 2 lò làm giấy, 1 lò nấu xà phòng, 1 hãng nước mắm, 1 trại đóng xuồng, 1 tổ sửa chữa máy đánh chữ, tổ sửa đồng hồ… Cuộc sống trong vùng căn cứ kháng chiến nhanh chóng đổi mới, đảm bảo các nhu cầu thiết yếu cho kháng chiến, tinh thần đoàn kết, tương trợ của nhân dân được phát huy mạnh mẽ.

Ngoài ra, tỉnh Mỹ Tho còn lập những công trình phúc lợi xã hội trong vùng tự do và vùng căn cứ, như trạm xá quân y và dân y… để phục vụ nhân dân, lập trại cô nhi viện, trường cấp I ở Hàm Vồ (huyện Cái Bè) để đưa con em cán bộ kháng chiến và con em liệt sĩ vào nuôi dạy.

Theo lời kêu gọi của Mặt trận Liên Việt - Việt Minh, nhân dân trong tỉnh đã tích cực đóng góp cho kháng chiến rất nhiều của cải vật chất. Riêng huyện Chợ Gạo, hàng tháng đóng góp đưa về trên khoảng từ 30 - 40.000 đồng.

Năm 1948, chính quyền Pháp thực hiện đổi tiền, thu hồi loại giấy bạc 100 đồng đỏ. Tỉnh Mỹ Tho và Ủy ban Kháng chiến hành chính chủ trương đóng dấu trên giấy bạc 100 đồng, tiếp tục lưu hành rộng rãi trong nhân dân. Đây là thắng lợi trong cuộc đấu tranh kinh tế giữa ta và địch.

Thực hiện Chỉ thị ngày 3-6-1949 của Trung ương về bao vây kinh tế địch, Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh ban hành lệnh cấm và hạn chế ra thành để giảm sự giao lưu kinh tế giữa vùng kháng chiến với vùng tạm chiếm. Ở vùng tự do, ta phát động phong trào sản xuất, tăng gia sản suất …

Ngoài ra, tỉnh Mỹ Tho còn lập các trạm kiểm soát đường thủy ở các nơi như: Cống Bà Kỳ, Kinh Năn (huyện Châu Thành), Kinh 28 (huyện Cái Bè), ngã tư Quản Oai (huyện Cai Lậy)… để ngăn chặn các mặt hàng xa xỉ phẩm lan tràn vào vùng tự do và ngược lại không cho vận chuyển lương thực, thực phẩm ra vùng địch tạm chiếm. Nhiều cuộc bãi thị, bãi chợ diễn ra làm kinh tế địch bị phong tỏa, lưu thông buôn bán nhiều lúc bị tê liệt, hàng hóa từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho bị hạn chế; hàng nông sản, thực phẩm ở vùng nông thôn ra thành bị phong tỏa nên làm ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế và kế hoạch quân sự của địch.

Tháng 2 năm 1949, Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Mỹ Tho tổ chức Đại hội quân - dân - chính tỉnh tại Chà Là (xã Thạnh Phú, huyện Cai Lậy) để triển khai chủ trương của Đảng về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ “tích cực cầm cự chuyển sang “tổng tiến công”.

Cuối năm 1949, Tỉnh ủy Gò Công thành lập đội thương thuyền hàng hải để vận chuyển lương thực, thực phẩm cho đồng bào miền Đông, miền Trung và trao đổi các mặt hàng muối phục vụ chiến trường đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh Mỹ Tho lập hệ thống kho chứa muối và chứa lúa dọc kinh 3 và kinh Bùi để phục vụ chiến trường. Ty Kinh tế - Tài chánh huy động lực lượng để thu lúa quản thủ, phân ra nhiều nơi cất giữ để chống địch càn quét đốt phá; vận động nhân dân xay, giã gạo cung cấp cho bộ đội và các ngành trong tỉnh.

Thông qua Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, tỉnh Mỹ Tho phát động phong trào quần chúng tham gia kháng chiến một cách toàn diện. Hội nông dân cứu quốc thông qua thực hiện các chính sách ruộng đất, đã phát động phong trào nông dân tham gia và đóng góp cho kháng chiến khá toàn diện. Nông dân tham gia đấu tranh chống áp bức, phá thế kìm kẹp, không cho địch lợi dụng kinh tế để phục vụ kế hoạch “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của chúng. Phong trào tăng gia sản xuất tự túc, tự cấp ở các vùng tự do phát triển. Thanh niên nông thôn, thành thị và tầng lớp trí thức tham gia du kích, thoát ly theo kháng chiến trở thành phong trào tự giác trong tỉnh, cơ sở cách mạng trong vùng tạm chiếm được xây dựng và phát triển rất nhanh, hình thành trận tuyến khá toàn diện ở ba vùng (vùng giải phóng, vùng tranh chấp và vùng tạm bị chiếm) để đánh địch.

Tỉnh Gò Công cũng tổ chức hội nghị tại xã Tân Cương, đưa đại bộ phận lực lượng vũ trang về Khu 8, chỉ để lại một trung đội vũ trang tác chiến nhưng phải phân tán nhỏ đánh địch, tăng cường thêm du kích hoạt động quấy rối địch và giữ trật tự xóm ấp.

Trên thực tế, hoạt động du kích đã tạo được kết quả to lớn. Ngày 14-2-1949, du kích các xã Nhị Mỹ, Tân Hội, Mỹ Hạnh Trung (huyện Cai Lậy) kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương tỉnh phục kích tiểu đoàn Âu - Phi, diệt hơn 50 tên, thu nhiều vũ khí. Tháng 5-1949, lực lượng địa phương tỉnh đã diệt hơn 40 tên tại đập Cây Đước (Gò Công) cùng với chiến thắng kinh Chợ Gạo của D.307, D.309 và quân địa phương nhấn chìm 2 tàu, 13 ghe chài của địch và bắt sống nhiều tên, thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ.

Năm 1949, với kế hoạch bình định đờ-la-tua và tiếp theo là kế hoạch bình định của sô-xông, Pháp ráo riết đóng đồn bót dọc theo lộ Đông Dương (Quốc lộ I), dọc sông Tiền, dọc kinh Chợ Gạo và các đường thủy - bộ đi các tỉnh; lập bộ máy kìm kẹp tại các vùng Pháp đã kiểm soát, nhất là ở Chợ Gạo, Gò Công. Pháp tiến hành các cuộc càn quét, hỗ trợ việc đóng đồn bót, đánh phá vào căn cứ Đồng Tháp Mười. Đến tháng 5 - 1949, Pháp mở liên tiếp nhiều cuộc càn có cả máy bay yểm trợ vào vùng kinh 28, khu vực Bánh Tét, Quản Oai. Chúng đã giết hại hơn 200 người dân ở Cai Lậy, hơn 100 người khác bị thương, 700 ngôi nhà bị đốt phá.

Về quân sự, tỉnh Mỹ Tho được Khu tăng cường lực lượng và bố trí hoạt động ở các huyện: Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành, Chợ Gạo và một số huyện thuộc tỉnh Long An. Đến giữa tháng 10-1949, Thị đội Mỹ Tho được thành lập. Và ngày 9-11-1949, ta mở chiến dịch ở Mỹ Tho, đánh vào trung tâm thị xã để phá kế hoạch mở rộng phạm vi chiếm đóng của địch. Trong chiến dịch này, ta tiêu diệt hơn 240 tên địch, thu 427 súng các loại, phá hủy 13 xe vận tải, làm cho bọn lính Âu - Phi, ngụy quân, ngụy quyền hoang mang, lo sợ.

Trong tỉnh Mỹ Tho, ta còn mở nhiều chiến dịch ở Khu 3 Châu Thành, Khu 2 Cai Lậy, đánh bót Bình Trưng (Châu Thành), đánh địch đi giải tỏa suốt 2 ngày liền, diệt hàng trăm tên địch, đánh chìm tàu, bắn rơi máy bay; án ngữ kinh Chợ Gạo, chặn đánh đoàn tàu trên sông Thiên Hộ, phá hủy 4 tàu và làm hỏng nặng một số tàu khác. Hưởng ứng chiến dịch Cầu Kè, ta đánh tan tiểu đoàn lính Ma Rốc ở Gò Công, chống càn thắng lợi ở vùng căn cứ Đồng Tháp Mười, ở Bánh Tét, chùa Phật Đá, La Cua, đập Hậu Mỹ, kinh 28… nâng thế chủ động của lực lượng ta, nhất là lực lượng chủ lực lên một bước mới, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến.

Mặt trận 16 A và 16 B được thành lập và hoạt động từ Bắc Mỹ Thuận (huyện Cái Bè) đến huyện Châu Thành. Lực lượng gồm du kích, địa phương quân kết hợp với chủ lực tỉnh, chuyên đánh xe quân sự của địch chuyên dùng tiếp tế cho các đồn bót và phá hoại cầu đường.

Tháng 12-1949, tỉnh Gò Công củng cố lực lượng vũ trang, Thị đội và Huyện đội Gò Công được thành lập.

Ngày 8-1-1950, tỉnh Gò Công tổ chức hội nghị để củng cố các chi bộ, chính quyền và đoàn thể, đưa cán bộ có năng lực về xã và huyện công tác, dời một bộ phận cơ quan cấp tỉnh sang Lý Nhơn và Đông Hòa (Gia Định), duy trì hoạt động du kích, đi sâu vào công tác địch vận, tạo điều kiện cho quân chủ lực tấn công tiêu diệt địch.

Thực hiện chủ trương của Xứ ủy và Khu ủy Khu 8 về chuẩn bị mở Chiến dịch tổng phản công, Tỉnh ủy Mỹ Tho, Gò Công tích cực thực hiện chủ trương giảm nhẹ bộ máy, tăng cường cán bộ cho cơ sở, củng cố xã đội, phát triển lực lượng du kích, xử lý những vụ gián điệp, phát động phong trào toàn dân tham gia kháng chiến.

Đầu năm 1950, các đơn vị hành chính, các huyện Chợ Gạo, Châu Thành, Cai Lậy của tỉnh Mỹ Tho đã chia thành nhiều khu, hoạt động theo phương thức phối hợp giữa Đảng - quân - dân - chính để lãnh đạo phong trào kháng chiến toàn diện hơn.

Ngày 30-3-1950, ta nổ súng mở đầu Chiến dịch tổng phản công, trong phạm vi 40 km thuộc 3 huyện Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè. Đến ngày 3-4-1950, ta thu hẹp mặt trận lại chỉ còn những trận chiến đấu nhỏ lẻ. Sau chiến dịch, thế của cách mạng được nâng lên một bước. Ta ráo riết chuẩn bị lực lượng, chuẩn bị chiến trường để đưa cuộc kháng chiến sang một giai đoạn mới, giai đoạn tổng phản công toàn diện giành thắng lợi.



(1) Mặt trận Đường 4. tr.55.