Thứ Tư, 28 tháng 2, 2007

Gò Công




Gò Công hôm nay là hai huyện của tỉnh Tiền Giang. Thời Tự Đức là một huyện của tỉnh Gia Định (huyện Tân Hòa), thời Pháp thuộc qui hoạch làm một tỉnh kèm theo cơ chế với tòa Bố, tòa Án. Dầu phân bố về mặt hành chánh như thế nào, du khách đến Gò Công cũng nhận là một khu vực độc đáo, với dòng họ xưa, nếp sống thuần VN, nhiều nhân vật nổi tiếng về khoa bảng.

Đất giồng cao ráo ven biển thuận lợi cho người từ miền Trung đến bằng đường biển dễ dàng. Vàm Láng phải chăng đặt tên ấy vì thời xưa đã mọc lên nhiều lán trại, dành cho ngư dân, không phải vì bãi biển trơn láng, kiểu giải thích gượng ép.

“Gò” là vùng đất cao ráo. “Công” là con công đến đậu, loài chim đẹp, thích múa, xòe lông đuôi. Ở Thủ Đức (thành phố Hồ Chí Minh) có một nơi cũng gọi Gò Công, nhưng Gò Công của Thủ Đức là Gò Công Trao Trảo, tên một loài chim rừng.

Gò Công khá thuận lợi để giao lưu với Sài Gòn, chỉ cần qua chiếc phà là đến Cầu Nổi. Thời Pháp mới đến, đồng bào ta ngạc nhiên vì kỹ thuật của Tây Phương, bến phà có thể dâng lên hay hạ xuống theo nước lớn ròng chớ không ở mức cố định.

Gò Công được nổi danh là “địa linh nhân kiệt” từ xưa, với Võ Tánh. Viên tướng gan lì, lúc Nguyễn Ánh và Tây Sơn tranh chấp thì án binh bất động, không theo bên nào, lợi dụng địa thế hiểm trở của những giồng đất (đặc biệt là Giồng Tre) để lập khu vực riêng. Nhưng khi thấy thế cờ nghiêng về phe Nguyễn Ánh. Võ Tánh tỏ lập trường là theo Nguyễn Ánh. Gò Công còn được lợi thế là lúa gạo ngon, sản lượng cao, vì vậy quân sĩ của Võ Tánh tha hồ luyện tập trong thời gian dài. Trận đánh lớn nhất là trận Hổ Cứ, vùng Tòng Sơn, nay thôn Sa Đéc. Và trận sau chót là việc tử thủ thành Bình Định (Qui Nhơn), nơi tập trung lực lượng mạnh nhất của Tây Sơn để bao vây. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tử tiết, Võ Tánh ngồi trên giàn hỏa, chung quanh chất sẵn thuốc súng rồi tự quăng tàn thuốc cho cháy. Sau đó, Ngô Tùng Châu uống thuốc độc tự tử.

Việc “tử thủ” này thừa lúc binh hùng tướng mạnh của Tây Sơn gom về Bình Định, Nguyễn Ánh tức tốc đưa quân ra Huế dễ dàng.

Nhờ đó Võ Tánh được sử gia nhà Nguyễn xem như một trong ba “người hùng” của đất Gia Định xưa. Ở ấp Gò Tre, xã Long Thuận hãy còn miễu thờ Võ Tánh, đánh dấu nơi tụ nghĩa. Vì tự thiêu, phần hài cốt không được nguyên vẹn, một phần tro thờ ở Bình Định, phần khác đưa về Gia Định xây lăng mộ, tại quận Phú Nhuận, đáng chú ý là nơi đây miếu thờ và lăng mộ khá đẹp, kiến trúc đơn giản mà uy nghi. Có người đặt giả thuyết tại lăng ở Phú Nhuận, tro của Võ Tánh được nhồi trong sáp, dùng sáp ấy nắn hình người rồi đặt trong quan tài.

Di tích lịch sử mà mọi giới, luôn cả người Tây Phương thích tham quan là lăng miếu của anh hùng miền Nam là Trương Định. Trương Định gốc Quảng Ngãi, là con quan lãnh binh, vào Gò Công lập đồn điền để khẩn hoang vùng đất thấp ven biển. Ông có tài tổ chức, đồn điền của ông là khuôn mẫu hoàn chỉnh thi hành chính sách “tay giáo, tay cày”, “động vi dân, tịnh vi binh”. Người khẩn hoang lúc rảnh rang lo luyện tập quân sự, kiểu dân quân, nhằm canh giữ trộm cướp và chống ngoại xâm. Hằng năm, khi thao dượt, dân đồn điền từ các tỉnh qui tụ về Sài Gòn, dân đồn điền Gia Thuận của Trương Định luôn luôn được khen ngợi.

Pháp đánh Sài Gòn, Nguyễn Tri Phương xây lũy Chí Hòa để chống giữ với sự đóng góp công lớn của Trương Định. Dân đồn điền của Trương Định quấy rối giặc, sau khi đồn Chí Hòa thất thủ tại Trường Thi (nay là Nhà Văn hóa Thanh Niên, đường Phạm Ngọc Thạch), và ở khu vực đường Cách Mạng Tháng Tám (Bộ Tư lệnh Thành) như bài văn tế của cụ Đồ Chiểu, xác nhận, gọi là “mô súng” nơi quân sĩ thời Tự Đức tập bắn.

Trương Định rút quân về Gò Công, bấy giờ gọi huyện Tân Hòa, củng cố hàng ngũ, đoán chắc sau khi chiếm Mỹ Tho, giặc sẽ chiếm vùng lõm Gò Công. Ông bố trí súng đại bác, đắp nhiều vật cản trên sông rạch, ngừa tàu chiến lớn nhỏ của giặc len lỏi vào. Sau hai năm chống cự, lần chót nghĩa quân ta bị đánh, Trương Định bị giết (có giả thiết nói ông tự sát) vì sự phản bội của một thuộc tướng cũ là Lãnh binh Tấn, tên này rành địa thế vùng đầm lầy.

Ông là người yêu nước nồng nhiệt, cuộc khởi nghĩa của ông nhằm chống đối việc triều đình Huế cắt đứt ba tỉnh miền Đông nhượng cho Pháp.

Giặc đem phơi thây ông tại chợ Gò Công cho dân chúng xem, để xác nhận ông chết thật, đề phòng có người khởi nghĩa khác mượn uy thế ông, bảo rằng ông còn sống, để tiếp tục kháng chiến. Dĩ nhiên, giặc đành chôn ông tại chỗ, để canh giữ phần mộ cẩn thận. Suốt thời gian dài thực dân rất khó xử; mặc dầu chúng đề cao công lao của tên Việt gian Lãnh binh Tán, kẻ phản bội.

Giồng Sơn Qui của Gò Công hình dáng con rùa được truyền tụng là huyệt linh thiêng. Sự thật như thế nào, không ai rõ ảnh hưởng của phong thủy, chỉ biết lúc sau này vì đất hẹp, dân đông nên về kinh tế người dân ở đây chẳng mấy ai khá giả. Giồng Sơn Qui là nơi phát tích của dòng họ Phạm Đăng Hưng, khi Nguyễn Ánh lên ngôi, lần hồi ông được thăng chức Lễ Bộ Thượng Thư, giỏi về chính trị và kinh tế. Khi mất, linh cữu đưa về Sơn Qui an táng. Con gái đầu lòng của ông là Phạm Thị Hằng, sinh ở Sơn Qui, được tuyển vào cung, là vợ của vua Thiệu Trị, bà sống đến 93 tuổi, chôn cất tại Huế. Ở Sài Gòn, có nhà hộ sinh đặt tên Từ Dũ, là tước vị của bà, khi là hoàng hậu. Bà được ngợi khen vì lòng hiếu thảo, lại biết dạy dỗ con là vua Tự Đức. Vua Tự Đức thích săn bắn, thường bị bà quở trách vì mỗi lần đi là quan lại và binh sĩ mất thời giờ theo phò trợ. Bà khuyên nhà vua bớt chuyện sát sinh. Con thú săn được nếu bị thương, chưa chết thì bà chăm sóc rồi “phóng sinh”. Trong cung, hôm ấy có ổ kiến bò lúc nhúc, bà nói với lũ kiến: “Mau tìm nơi khác mà ẩn thân, bằng không bọn nữ tỳ dội nước sôi giết sạch”. Lũ kiến như “biết nghe”, lập tức dời đi nơi khác. Bà đọc kinh sử, xem tích xưa dạy vua Tự Đức. Hôm ấy, vì ham mê săn bắn ở khu rừng gần Huế, gặp cơn mưa, vua và các quan trở về ướt át. Bà dạy đem đến cây roi mây; nhà vua như biết mẹ đang giận bèn nằm xuống chịu tội. Nhưng bà hất cây roi, nói với Tự Đức:

- Lần này, ta tha tội cho. Chuyện vui chơi mà làm phiền nhiều người, nãy giờ mẹ cứ nóng lòng chờ đợi. Rủi nhuốm bệnh thì sao? Đừng ham vui như vậy nữa.

Đặt tên bà cho nhà Hộ Sinh, ngụ ý nhắc đến phận sự của người mẹ khéo dạy con.

Khu lăng mộ của họ Phạm được bảo quản tốt, thời nhà Nguyễn, cử người chăm sóc (gọi tự phu), nghi thức xây mồ mả được tôn trọng, to lớn theo cấp bậc. Nhờ vậy, giồng Sơn Qui được nổi danh với di tích lịch sử văn hóa này. Vua Thành Thái đã đích thân đến thăm khu mộ họ Phạm, vua là người yêu nước, cuộc viếng thăm đã động viên lòng yêu nước của người dân địa phương. Bấy giờ Nam Kỳ được người Pháp xem như một “nước” riêng, tách khỏi Trung Bộ, vua Thành Thái trong thực chất chỉ là vua tượng trưng, không quyền hạn. Người địa phương gọi đây là khu lăng mộ của “Thích Lý” theo nghĩa của bà con nhà vua.

Thắng cảnh Gò Công rất ít, nhưng du khách không thể bỏ qua bãi biển Tân Thành, khá tốt, dành làm nơi nghỉ mát cho học sinh nhưng đồng bào mọi giới đến đây vẫn thấy thoải mái với biển rộng trời xanh, ít tốn kém mà được thưởng thức nhiều hải sản còn tươi. Từ đây, nhìn thấy núi ở Vũng Tàu.

Gò Công ít xảy ra thiên tai, nhưng năm Giáp Thìn (1904) trận bão lớn từ biển khơi kéo đến thình lình, vào tháng 5 dương lịch, theo âm lịch là 16 tháng 3. Số người chết quá lớn. Mấy làng sát biển gần như 95% dân số. Nên nhớ bấy giờ vào mùa nắng hạn, đất ruộng còn khô cằn, nứt nẻ, chẳng ai đề phòng vì bình thường bão chỉ xảy ra vào cuối mùa mưa, tháng 9 hoặc tháng 10.

Các nhà nghiên cứu khí tượng mãi đến nay đặt giả thuyết: Đó là loại “sóng thần”. Do động đất từ đáy biển ngoài khơi. Nước biển dâng lên đột ngột hơn 4 mét, sóng to tràn vào bờ, ngập nhà cửa, trong dân gian còn phổ biến bài vè về trận bão này, ảnh hưởng lây lan đến Mỹ Tho, Rạch Giá, tận Lộc Ninh, Hớn Quản miền Đông nhưng miền biển Gò Công lại là nơi đứng “đầu sóng ngọn gió”.

Hôm ấy, có làng đang bày lễ Kỳ yên ở đình, mời gánh hát bội đến. Sau khi nước giật, người từ địa phương khác đến cứu trợ chợt phát hiện vài xác chết tận trên ngọn tre, nạn nhân còn áo mão, râu ria. Trâu bò chết, nước giật xuống, chẳng ai chôn, mùi hôi thối gây bệnh tật. Bọn cướp nọ đến nhà điền chủ, bao vây vòng ngoài, chờ xông vào “ăn hàng”. Bão nổi lên, dân làng hoảng sợ chỉ biết nơi tạm trú an toàn nhất là ngôi nhà vách tường của ông điền chủ. Dân chạy bão lụt quá đông, khi bọn cướp đến chỉ là thiểu số, chúng hoảng sợ, để rồi lát sau, phần lớn chịu chết, nếu không biết bơi lội giỏi, ở miền biển, ai mà chẳng biết lội nước, cái khó là khi giông bão nổi lên thì luôn luôn trời tối như mực, ngâm mình dưới nước lạnh suốt ba bốn tiếng đồng hồ, tay chân bủn rủn, lại thêm đói. Biết bơi lội giỏi cũng chết. Thời buổi nào cũng có dân bất lương, làm giàu nhờ cái chết của kẻ khác. Mười ngày sau, lắm kẻ từ vùng lân cận đến vơ vét nào vàng bạc trong tử thi, nào tủ cẩn xà cừ, nào bộ ván gỗ, đem công khai về xứ.

Hằng năm, ở Gò Công vẫn giữ lệ Giỗ hội (giỗ tập thể), ngày 16 tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ ông bà tử nạn hồi năm xưa.

Với bề dày lịch sử, người Gò Công lần hồi biết tận dụng thế mạnh của mình về nguôn lợi thiên nhiên, nổi danh trong khắp Nam Bộ, có một thức ăn khó kiếm đó là mắm tôm chà. Dùng con tôm đất, lúc nhiều trứng, nhiều gạch son, bắt khi tôm chưa đẻ đem về cắt đầu, cắt đuôi, ngâm rượu, quết trong cối nhỏ, thêm gia vị muối ớt. Đến giai đoạn chà tôm, “chà” là động tác chà xát, chà trên cái rổ khá dày mặt (nay dùng rổ lưới sắt mịn), tôm rơi xuống như thứ bột lỏng, có màu đỏ, màu gạch tôm. Đem phơi nắng cho mớ bột ấy đặc lại, đề phòng ruồi bu mất vệ sinh, có thể sinh bệnh. Thời trước, tôm này đựng trong ve chai nhỏ, đậy nút kín, bán tận Sài Gòn. Vài người đem phết mắm tôm chà lên bánh mì, ăn như bánh trét bơ lạt.

Lại còn món mắm tôm để nguyên con, cắt đầu, ngâm trong hũ có nước mắm nấu nước đường và hàn the, để nguội. Xong gài cho chặt, trước đó lót lá chùm ruột và mía lau xắt nhỏ dưới đáy hũ. Mười lăm hôm sau, ăn được, bày tiệc với thịt ba chỉ xắt nhỏ, rau sống, riềng, ăn với bún.

Móm mắm tôm chua nguyên con này ở Huế vẫn phổ biến, bán giá cao, theo lời đồn đãi đáng tin cậy thì bà Từ Dũ, người Gò Công đã nâng niu đứa con là vua Tự Đức, bày món này để nhớ quê nhà, ra xứ Huế, được cải biến chút ít.

Tôm khô ở Gò Công nổi danh, con nhỏ, dùng tôm đất ngon ngọt hơn thứ tôm ở biển Rạch Giá - Cà Mau nhiều.

Là đất xưa với quan lại thời phong kiến cũng như thời Pháp thuộc, Gò Công được nổi danh với thú phong lưu “cầm” và “kỳ”.

Cầm là nghề đàn ca. Tương truyền khi bà Từ Dũ còn sống, người địa phương tuyển chọn những nghệ nhân giỏi nhất đưa ra Huế để hòa tấu cho bà thưởng thức. Truyền thống ấy hãy còn trong giới cổ nhạc, họ giao lưu với các nhạc sĩ ở Cần Đước, cách một con sông mà thôi.

Về cờ tướng, một thời đất Gò Công tự hào với lão sư “Giáo Bố”, tên thật Hà Quang Bố, làm giáo viên ở làng. Ông giáo về sau dời xuống Long Mỹ (nay Cần Thơ), gây phong trào cờ tướng. Ông là vô địch, đã từng thi đấu tại Chợ Lớn với những “kỳ vương” từ Hương Cảng qua, được thán phục vì tài biến hóa khi ra quân, dường như chỉ hòa đôi ba lần, những lần khác thì thắng, với tài hoa rõ rệt.

Nghề truyền thống của Gò Công nay hãy còn nổi danh khắp Nam Bộ, được nhiều địa phương khác mô phỏng vẫn là đóng tủ thờ. Như ta biết, trước khi Pháp đến và sau đó trong thời gian dài, đồng bào ta gọi “giường thờ”, hiểu là cái giường mà người quá cố đã dùng lúc còn sống. Ở nhà trung lưu, giường là bộ ván nhỏ, trải chiếu, giăng mùng khi ngủ, ban ngày, vắt mùng lên, dùng làm nơi đọc sách, uống trà, đánh cờ hoặc đánh đàn với bạn bè. Khá giả hơn, giường có bốn cây trụ chạm trổ, khá rộng, có thể nằm... hút thuốc phiện với bạn. Khi chết, người nhà đem trọn cái giường ấy ra giữa nhà, đặt sát vách để thờ, theo quan niệm xưa: “Thờ người chết giống như người ấy còn sống”.

Lần hồi, đơn giản hơn, đóng cái bàn nhỏ, bốn chân, trên mặt bàn cũng để cái gối, cái quạt, kỷ trà, gọi là “giường thờ”, bằng cớ là hãy còn câu hát:

"Ngó lên, nhang tắt đèn mờ,

Mẫu thân đâu vắng, giường thờ quạnh hiu!”.

Để tiện việc thắp nhang, cúng kiến, phía trước cái giường thờ nói trên, đặt thêm cái bàn cao hơn, bên trên chưng bày hai chân đèn, một cái lư dành để đốt trầm (có nắp, thường là hình con kỳ lân), dưới nắp là những lỗ nhỏ để khói trầm xông lên thoang thoảng. Sau cái lư đốt trầm là cái lư cắm nhang, thêm bình bông, đĩa để chưng trái cây. Cái bàn thờ này cao hơn, đặt phía trước cái giường thờ thấp. Ngày giỗ, dọn thức ăn trên giường thờ phía sau.

Với sự tiếp xúc với văn minh Tây Phương, lần hồi người trung lưu thấy cái bàn thờ chưng chân đèn và lư của ta còn thô, bốn chân lỏng khỏng, lắm khi phía trước che cái “quần bàn” vải đỏ thêu con lân, con phụng. Người Pháp cho du nhập kiểu tủ khá đẹp, phía trước không cửa, cửa bên hông, mặt tiền uốn cong, lắm khi hình hột xoài, hai bên là cột nhỏ, chạm những hột chuỗi. Ta mô phỏng lại, với vật tư quí giá của xứ nhiệt đới là cây cẩm lai, cây gỗ (hoặc thao lao). Dùng kiểu tủ này để chưng chân đèn và bộ lư trông sang trọng hơn, khi đủ tiền thì mặt trước của tủ dùng cây nu. Nu là dạng cây có tật, thớ cây trộn loại, xoáy tròn từng loại, đẹp nhất là nu của cây gỗ.

Thợ mộc ở Gò Công được nổi danh nhờ áp dụng kiểu tủ Pháp (kiểu thời vua Louis XVIII) để làm tủ thờ, tức là cái bàn thờ cao ngày trước, đặt trước giường thờ. Và cái giường thờ ngày xưa lần hồi không còn, khi làm đám giỗ, thức ăn bề bộn thì dọn trên bộ ván, đặt trước cái tủ thờ.

Người trong nghề mộc gọi kiểu tủ Pháp cải tiến ấy là “tủ Gò Công”, nghĩa là theo mô thức mà người thợ ở Gò Công sáng tạo trước tiên. Nghề đóng tủ nói trên, nhiều xã ở Gò Công có thợ, nhưng nổi danh nhất có lẽ ở thị xã Tân Niên Trung, Bình Xuân. Kiểu tủ này được mô phỏng về sau ở Lái Thiêu (Sông Bé), chợ Thủ (An Giang). Ngày nay, vẫn còn thông dụng, nhưng mặt trước không uốn cong, lại cẩn xà cừ, tuy nhiên vẫn còn dấu ấn của tủ Gò Công khi xưa: Phía trước không mở cửa, vả lại, gỗ quý ngày càng hiếm, thợ có tay nghề cao lần hồi không còn mấy ai, hàng tiêu dùng cần được tiêu thụ mạnh, giá thành càng rẻ càng tốt.

Ghe hầu là nghề truyền thống của Gò Công. Ngày nay, nhắc đến tuổi trẻ hoặc giới trung niên ít ai tưởng tượng được hình ảnh cụ thể. Những năm đầu thế kỷ XX, ô tô chưa phổ biến, dưới sông còn tàu thủy chạy máy hơi nước rất cồng kềnh, phương tiện di chuyển của giới điền chủ, cai tổng hoặc hương chức làng xã vẫn dùng ghe cá nhân.

Nhưng ghe của người sang trọng phải có gì lạ. Cần tiện nghi tối đa, đi nhanh, hình dáng hấp dẫn chứng tỏ người sử dụng thuộc vào tầng lớp quí phái.

“Hầu” là đi hầu việc quan, theo nghĩa này là cấp dưới đi công tác, để gặp cấp trên, xin ý kiến, chờ quyết định. Hầu, là hầu hạ, hầu chực vì bộ máy phong kiến thực dân lắm khi tùy tiện.

Đi ghe, gọn hơn đi bộ, đi võng như xưa thì quá cồng kềnh. Vả lại, địa hình ở Nam Bộ nhiều sông rạch, dễ gì nuôi ngựa, qua cầu khi mưa đường xa trơn trợt. Đường thủy bảo đảm nhanh nhất. Đây là kiểu ghe mô phỏng theo ghe của cai tổng, quan phủ thời phong kiến, cải tiến lại đôi chút. Vẫn là vàng son tráng lệ, ở xứ thuộc địa, chẳng có gì là cấm kỵ, miễn là đủ tiền. Mũi chạm đầu rồng, lái chạm chim phượng, nào kém gì vua chúa xứ Huế thời xa xưa. Để tăng tốc lực, ghe phải tương đối nhỏ, phía trước hai người chèo, phía sau hai người. Mui là công trình nghệ thuật, hình chữ nhật, cao ráo, nhưng muốn vào phải lom khom một tí để giữ thăng bằng cho ghe đừng chòng chành. Mui chạm nào hình con dơi, nào quạ, nào lẳng hoa tùy thích, kiểu “Bát tiên” trong thần thoại, hoặc hoa mẫu đơn, rồng, hoa cúc, tùy chủ nhân. Cửa trước cửa sau đóng kín được, tránh những cặp mắt tò mò, lắm khi đi hầu quan trên nhưng vì đường xa, mang theo hầu thiếp, bên hông, bố trí cửa sổ cho mát. Sạp ghe trơn láng, bằng phẳng, trải chiếu bông với gối nằm, gối dựa lưng, thêm ấm trà, cái bếp nhỏ nấu nước sôi, bộ đồ hút thuốc phiện. Gối thường là kiểu vuông, màu mè sặc sỡ, thêm cái bàn thấp, để ngồi xếp bằng mà viết. Nếu thuộc vào hàng cai tổng, bố trí thêm “lỗ bộ”, tức là những khí giới thời xưa, khi đi ra ngoài, quân sĩ vác chạy phía trước để dọn đường, nhưng đây là những món tượng trưng, nhỏ bé, cao hơn 2 tấc tây, nhằm trang trí trên cái giá nào đinh, chùy, đao, kiếm.

Khi cần ăn cơm, bọn chèo ghe dừng lại, lên chợ mua thức ăn, xào nấu ở bếp nhỏ, phía sau lái.

Về văn học, Gò Công tự hào là sinh quán của tiểu thuyết gia lừng danh Hồ Biểu Chánh, chuyên về phong tục đồng quê, qua sinh hoạt thời Pháp thuộc, nhân vật nào là chủ điền, tá điền, hương chức hội tề, điền chủ có con rể là thơ ký, thêm cảnh nghèo túng của người dân không đất cấm dùi.

Trong phạm vi một tỉnh, Gò Công đáng nêu trong lịch sử xuất bản cả nước, từ năm 1921 đến năm 1930 với nhà xuất bản lấy tên Nữ Lưu Thư Quán do bà Phạm Thị Bạch Vân làm giám đốc. Sách in khá đẹp, vào thời ấy, đáng chú ý là nội dung bổ ích nhưng chỉ nhằm nâng cao trình độ người trung lưu. Đến nay, ta thấy những đầu sách ấy vẫn còn cần thiết, hiện đại:

- Nữ Tài Tử.

- Tây Sương Ký.

- Truyền Kỳ Mạn Lục.

- Kim Vân Kiều, Chinh Phụ Ngâm,

- Lục Vân Tiên.

Ngoài ra, về dịch thuật, tủ sách Nữ Lưu nói trên chú ý đến truyện trinh thám Anh (Bàn tay ma), lại còn thời tranh đấu của thánh Cam Địa (Gandhi), dùng phương pháp bất bạo động chống thực dân Anh, giành độc lập cho Ấn Độ.

Đáng lý ra tủ sách Nữ Lưu nói trên đứng vững và phát triển, nhưng bấy giờ việc phát hành chưa rộng khắp, nhờ đường bưu điện gởi trước, sau đó, người mua trả tiền sau. Lại còn những tỉnh xa xôi phía đồng bằng, người đọc sách vỏn vẹn là công chức, điền chủ, phần lớn họ thích mua sắm những tiện nghi vật chất như đèn treo nhà, tủ cẩn, tô chén nhập từ Nhật, đặc biệt là thích truyện Tàu để giải trí như Tây Hớn, Tiết Đinh San, Tam Quốc. Đi tiên phong bao giờ cũng khó, gần như đơn độc.

Về lễ hội, Gò Công nổi bật với tế cá Ông mà ngư phủ ở Vàm Láng tổ chức hàng năm. Theo truyền thuyết, cá Ông giúp đỡ người đi biển, khi giông tố nổi lên, thuyền sắp đắm thì cá Ông lội nhanh đến, đưa lưng mà đỡ cho ghe được nâng cao, rồi đưa vào bờ. Đi theo cá Ông còn có cá Đao, cá Ép, hai loại cá này đóng vai trò “giám sát”, thúc giục cá Ông sốt sắng với nhiệm vụ. Theo tín ngưỡng dân gian từ miền Trung thì cá Ông giống như vị thần, là con người, vì vậy khi thấy cá trôi tấp vào bờ, ai phát hiện sớm thì được vinh hạnh lớn, dân ngư phủ xem người ấy như là con trưởng nam của cá Ông. Dịp chôn cá Ông (để sau đó thịt tan rã, lấy cốt đem thờ), người phát hiện là con được để tang, bịt khăn, chống gậy, quì lạy như cha ruột mình đã mất. Bù lại nhiệm vụ để tang ấy, sau này đứa con trai của Ông hưởng chút ít đặc quyền, ăn trên ngồi trước dịp tế lễ. Lễ tôn thờ cá Ông phổ biến ở Đông Nam Châu Á. Gần Nam Cực đầy băng giá, lắm khi cá Ông đi lạc đến Quảng Bình, có lẽ là ranh giới cuối cùng của vùng biển nóng. Ở xứ lạnh, việc săn cá voi trở thành một ngành khai thác đặc biệt về hải sản, trang bị kiểu tàu riêng, cá bị bắn với mũi tên tẩm thuốc rồi trục xác lên tàu, có bộ phận công nhân chuyên xẻ thịt, lấy mỡ. Các nước tiên tiến đã mở nhiều hội nghị quốc tế để hạn chế tối đa việc săn bắt này, nhằm bảo vệ một loại thú ngày càng quí hiếm. Theo khoa học, cá Ông được liệt kê vào loại thú có vú, cá con bú sữa mẹ mà trưởng thành. Lại phân biệt nhiều thứ gọi là cá voi. Thí dụ như người Việt phân biệt cá Nhà Táng, đầu vuông, vòi xịt nước lên (gọi lên dọi) chia hai, đi xéo, trong khi cá voi thứ thật thì xịt vòi nước thẳng lên cao. Khi thấy xác cá trôi vào bờ, bất chấp cá Nhà Táng hoặc cá Voi, ngư phủ mừng vì được cơ hội tốt thờ cúng với hiện vật, thay vì thờ trừu tượng.

Ở Vàm Láng, dạo trước đã gặp khúc giữa của con cá Ông trôi dạt, sau này, lại gặp được xác một con cá nhỏ, trôi vào bờ, chôn lấy cốt. Hàng năm, đêm rằm 16 tháng 6 âm lịch, cử hành lễ cúng. Lễ này tùy địa phương, sai biệt về ngày tháng, căn cứ vào ngày gặp cá trôi vào bờ. Nha Trang, vị trí thuận lợi hơn, cá Ông trôi vào nhiều hơn. Đồng bào quen gọi tôn cá Ông là “thủy tướng”, là “ông Nam” tức Nam Hải Đại Tướng Quân, tước của nhà vua phong cho. Nhờ tước ấy, ta thấy ở đình thờ Thành Hoàng trong đất liền khi đọc văn chúc dịp Kỳ yên, Nam Hải Tướng Quân được thỉnh về và thờ ở Bàn Hội Đồng, như là khách danh dự của buổi tế, mặc dầu làng ấy chỉ làm ruộng rẫy xa biển.

Trên nguyên tắc lớn, sau này thêm bớt chút ít về chi tiết, việc tế cá Ông giống như tế thần Thành Hoàng ở làng, do triều đình quy định: Phải cử hành lễ dâng ba tuần rượu, không được dâng một lần hoặc hai lần, hoặc bốn lần. Đúng ba tuần rượu. Ai làm sai trái thì bị xem như muốn đảo ngược kỷ cương triều đình và bị trị tội nghiêm khắc.

Dầu cho xác cá trước kia được vớt lên bờ lúc nào, lễ tế vẫn cử hành vào lúc nửa đêm, với ý nghĩa tế Trời, qua sự “tiếp vận” của Thủy tướng (cá Ông). Theo quan niệm cũ, cá Ông thừa lệnh Trời để cứu ngư phủ. Đó là ơn của Trời.

Ngư phủ không được quyền tế Trời trực tiếp. Tế trực tiếp là đặc quyền của nhà vua gốc là con Trời (Thiên tử). Vua đứng trên đàn Nam Giao ở kinh đô, nhìn lên bầu trời bao la mà làm lễ, quì lạy. Đàn là mô đất bên dưới hình vuông (đất vuông), đàn mà vua đứng đắp hình tròn (trời tròn).

“Thiên sinh ư Tý”, cúng tế Trời, khi Trời vừa xuất hiện, thuở khai thiên lập địa. Trước đó, cần chuẩn bị để tập hợp đồng bào địa phương, gây không khí hào hứng, nhắc nhở sự đoàn kết giữa người còn sống và những người đã mất. Giới ngư phủ rất nhạy bén trước những may rủi. Ngoài biển khơi, con người như cô độc, thông tin để cứu cấp khó khăn, nhiều người đã hy sinh từ bao thế hệ. Bởi vậy, từ 2 giờ khuya, trước khi hành lễ chính thức, bày lễ cầu an với nhà sư rước từ chùa Phật để tụng kinh gõ mõ, lại bố trí một giàn cao, kiểu cúng rằm tháng bảy. Đặt bánh trái linh tinh, mục đích là cúng cô hồn, nhiều người hảo tâm mang đến bánh kẹo, chuối, mía, hoặc giấy tiền vàng bạc. Tụng kinh xong, phân phát những món đã cúng ấy cho trẻ con; người lớn tuổi tránh không dám đụng những món này vì là thức ăn mà người cõi âm hưởng rồi, ăn vào là xui xẻo. Riêng trẻ con thì khác, với tâm hồn ngây thơ, chúng được Trời Phật ban ơn huệ riêng, cứ ăn, không sao cả. Bởi vậy, trong dân gian, dịp lễ này trẻ em được người lớn gọi đùa là “cô hồn sống”.

Nửa đêm, 12 giờ khuya là giữa giờ Tý, giờ thời xưa tính ra 2 giờ ngày nay. Chờ quá nửa đêm, làm lễ tế chính thức, tin rằng bấy giờ Trời đã xuất hiện, rồi làm lễ nghinh Ông (nghinh là đón mừng, kính trọng) vào lúc ấy là thuận lợi nhất. Tuy trong miếu thờ cốt cá Ông, nhưng vì Ông ở ngoài biển nên phải ra biển, bố trí chiếc ghe khá to, trang hoàng nào cửa vòng nguyệt kết với lá dừa, thêm bông hoa tươi như bông bụt, bông lồng đèn, kết hoa văn tùy thích, hoặc treo bảng ghi “Lễ tạ ơn Thủy tướng”, bàn thờ đưa xuống ghe, hạn chế số người vì đã chật ních nào ban nhạc lễ, nào lễ sinh, hương chức phụ trách tế lễ, các ông kỳ lão, các vị Mạnh Thường Quân, thêm trống chầu, mõ, chiêng, phẩm vật, không thể thiếu một con heo sống hoặc đơn giản hơn có con heo quay. Thế là ghe rời bến.

Lễ cử hành như ở đình làng, đèn cháy sáng, nhang khói nghi ngút, lễ sinh bước tới lui dâng ba tuần rượu, đọc văn chúc, tạ ơn Thủy tướng, nếu khá giả, rước thêm đào thài, tức là những cô gái trẻ đội mão, mặc áo đẹp như những nữ tỳ phục vụ vua chúa trong cung điện. Các cô hát, lời lẽ nhằm ca ngợi món rượu ngon, hương thơm.

Từ trong bờ nhìn ra thấy đèn sáng choang, nghe tiếng trống, tiếng chiêng. Chiếc ghe quả đóng vai trò một ngôi miếu nổi giữa trời biển bao la.

Tế xong, ghe trở về. Quang cảnh trên bờ náo nhiệt hơn bao giờ hết, có thể nói rằng lễ nghinh Ông vui vẻ quan trọng không kém ngày tết Nguyên Đán. Ghe chưa vào vàm, hai bên bờ ngư phủ đã chuẩn bị đón, thời xưa đốt pháo không dứt tiếng, mỗi ghe lưới lớn nhỏ đều trang hoàng, sang trọng nhất là đặt bàn hương án, với chân đèn, lư nhang, bông hoa, trái cây, có tiền thì xài đèn măng-xông, hoặc đèn giấy; chủ ghe và ngư phủ đứng kính cẩn chắp tay xá. Nhiều thuyền câu nhỏ, tuy thiếu phương tiện, cũng thắp đèn dầu, đèn bão, hoặc dùng đuốc lá dừa, đuốc đèn chai (thời trước, dùng dầu chai tẩm vào vỏ tràm, bó lại như cây đuốc, dân miền biển mua đèn chai để bắt ba khía).

Ghe cặp bến, chân đèn và lư được đưa lên miếu. Bấy giờ, cũng như ở đình làng, ban hát bội chờ sẵn, trước khi diễn, làm lễ xây chầu. Ông kỳ lão lớn tuổi, quắc thước, khăn đen áo dài, cầm roi trống, khấn vái Thủy tướng và Trời Đất, đánh những hồi trống theo bài bản, đếm từng tiếng, khuấy đọng bầu không khí cũ, tạo ra không khí mới cho cả vùng. Trống đánh nhằm cầu bình an cho bá tánh, ngư nhân đắc lực, tiếng đánh lúc đầu nhỏ, nhưng lần hồi thúc lại, càng lúc càng to, trước khi dứt một hồi, theo nghĩa “tiền bần hậu phú”. Sau đó, đến phần trình diễn Đại bội, theo nghi thức ở đình làng. Diễn viên hát bội trình diễn những hoạt cảnh, kèn trống rập ràng. Bắt đầu là ông Bàn Cổ cầm nhang, vẽ bùa, mở ra trời đất. Kế đến một nam một nữ ra múa, tượng trưng cho khí âm khí dương. Âm dương tạo ra muôn loài, trong đó có tam tài, tức là trời, đất và con người, để hoạt cảnh được vui. Con số ba này gồm hình tượng ba vị thần Phước, Lộc, Thọ hóa trang như trong tượng sành sứ ta thường thấy. Kế đến Tứ Thiên Vương, bốn vị tướng giữ bốn cửa trời tạo ra mưa gió, sấm sét, lửa... nhờ điều hòa những yếu tố này mà mưa gió thuận hòa, ích lợi cho nhà nông khi làm ruộng, cũng như mưa gió ngoài biển được thuận lợi, đánh bắt hải sản dồi dào. Đến Ngũ Hành, tức là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Thổ là người kép đứng giữa, bốn cô gái tiêu biểu cho bốn hành còn lại, hoặc giải thích là bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Sau chót là hát bội. Tuồng tích nhằm ca ngợi trung hiếu, tình và hiếu vẹn toàn, không phụ bạc kẻ nghèo, vợ chồng ăn ở chung thủy. Ở miền Trung, giữ đúng tục xưa, thêm màn hát bội ngắn, diễn lại sự tích “Cá Ông cứu dân”. Vài người đóng vai ngư phủ, một người đóng vai chèo dọc (chỉ huy), thấy cá Ông từ phía xa, đón mừng, tạ ơn... Dùng kèn trống và các điệu hát Nam Bắc của tuồng hát bội.

Thời xưa, dịp “Nghinh Ông”, dân chài lưới ăn xài thỏa thuê. Nghề đánh bắt khó chủ động về thu hoạch, có tiền thì xài, hết thì thôi. Gặp vận may, “bà cậu độ” bỗng dưng kẻ không tiền trong phút chốc trúng mẻ lưới to. Bởi vậy, dịp này thường bày ra cờ bạc công khai, lãng phí.

Nay xem trong cuộc sống mới, lễ nghinh Thủy tướng được xem như ngày truyền thống của ngư dân.

SƠN NAM

Cá cơm-món ăn bình dân



Trong các buổi tiệc, giỗ ở miền quê Gò Công (Tiền Giang), ngoài những thức ăn thịt, cá ê hề, chủ nhà thường dọn kèm mỗi bàn vài ba thố mắm cá cơm chua cùng bún, rau sống. Giản dị như vậy, nhưng món mắm chua luôn lôi cuốn khách bằng hương vị đậm đà, dân dã…

Vào những tháng mưa nhiều, cá cơm đẻ rộ, sản lượng đánh bắt nhiều vô kể. Ngư dân làm mắm dùng trong gia đình khá đơn giản: ướp từng lớp cá với muối theo tỷ lệ vừa phải, đựng trong khạp gọi là mắm sống, để dành ăn lâu dài. Nổi tiếng cả nước là nước mắm cá cơm Nam Ô. Nam Ô là một làng nhỏ ngay trên quốc lộ 1, thuộc thành phố Đà Nẵng. Vào tháng 3, ngư dân tập trung đánh bắt loại cá cơm than, trộn với muối Cà Ná hạt to cho vào chum, vại gài đậy kín. Khoảng 6 tháng sau trộn cá muối lại và khi trên mặt chum xuất hiện lớp men màu trắng thì lấy vải mịn để lọc. Nước mắm Nam Ô có màu cánh gián, độ đạm cao, thơm ngon đặc biệt.

Một món ăn ngon được chế biến công phu từ cá cơm là… nem. Cắt đầu và phần bụng cá, bỏ ruột, rửa sạch, ngâm nước muối cho cá nhũn ra, gỡ bỏ xương, ngâm lại với nước dừa cho thấm chất ngọt. Vớt để ráo nước, gói cá vào vải mùng vắt khô, quết nhuyễn với tỏi nướng, cá sẽ dai và thơm. Trung bình 1 kg cá cần 50 g tỏi cùng với muối, đường, tiêu hột, bột màu thực phẩm, tỏi sống xắt lát mỏng, trộn đều với cá và gia vị rồi vo viên cỡ ngón tay cái, thoa ngoài bằng mỡ nước. Dùng vài lá chùm ruột gói viên cá, ngoài là lá vông, lá chuối, cột dây chữ thập thật chặt. Sau một tuần là ăn được. Nem cá cơm dễ tiêu, hàm lượng dinh dưỡng cao.

Trong các buổi tiệc, giỗ ở miền quê Gò Công (Tiền Giang), ngoài những thức ăn thịt, cá ê hề, chủ nhà thường dọn kèm mỗi bàn vài ba thố mắm cá cơm chua cùng bún, rau sống. Giản dị như vậy, nhưng sau khi khách đã ngán các món ăn bài bản đầy chất béo thì món mắm chua sẽ lôi cuốn khách bằng hương vị đậm đà, dân dã. Cách chế biến cũng không khó. Cá cơm cắt đầu, bỏ ruột, chà bằng rổ tre cho sạch vảy. Để ráo nước, rải phơi nắng vừa độ dai và trong. Đâm nhuyễn tỏi, ớt vừa khẩu vị trộn đều với cá, sắp khéo vào hũ thủy tinh, nấu nước mắm ngon cùng đường cát trắng cho sôi, để nguội đổ ngập cá. Mía chặt lóng chẻ tư gài ép cá không cho nổi, đậy kín. Bình quân 2 kg cá cơm khi thành phẩm còn độ 1 kg mắm. Để từ 10 đến 15 ngày, mắm có mùi thơm là dùng được. Khi ăn, xắt khóm miếng nhỏ, rim đường cát cho dẻo, đu đủ xanh bào sợi bóp muối, vắt khô sẽ giòn và không làm nát cá. Trộn các thứ với mắm, thêm chanh, ớt tuỳ thích. Nếu trộn để hai ngày sau mắm sẽ chua và thơm ngon hơn. Ăn kèm thịt phay luộc, bún, khế, chuối hột non, dưa leo và các loại rau thơm. Những vị này hoà lẫn nhau tạo cảm giác rất ngon miệng, trên hết vẫn là hương mắm cá cơm ngọt dịu, đằm thắm chất quê.

Tuy là món ăn bình dân dễ chế biến, nhưng mắm cá cơm chua rất được ưa chuộng và thường không thiếu vắng trong các buổi tiệc, giỗ của người Gò Công chính gốc./.

Chùa Thanh Trước




Chùa Thanh Trước:Chùa dựng vào năm 1826 tại ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công. Ban đầu chùa có tên là Phật Linh, đến năm 1851, hòa thượng Chơn Hội đứng ra tổ chức xây lại chùa và đổi tên là chùa Thanh Trước. Chùa trải qua 7 đời trụ trì của các hòa thượng. Năm 1896, hòa thượng Hải Tràng cho trùng tu lần thứ nhất. Từ năm 1941, hòa thượng Hoằng Thông đã cho sửa chữa vào các năm 1946, 1958 và 1989. Trong chùa còn lưu giữ nhiều di vật quí như tượng đức Phật, chân dung tổ Ti-ni-đa-lưu-chi và tháp tổ ở khuôn viên chùa.

Nhà máy xử lý rác Gò Công chết yểu


Thiết bị xử lý rác đã biến thành đống sắt vụn.


Nhà máy này được xây dựng từ năm 2000 tại thị xã Gò Công, Tiền Giang, với tổng số vốn đầu tư là 1,502 tỷ đồng. Theo thiết kế, nơi đây vừa xử lý rác vừa có nguồn thu từ việc bán phân bón vi sinh sản xuất từ rác. Tuy nhiên, nhà máy nhanh chóng phải đóng cửa vì không thể xử lý rác cũng như sản xuất phân bón.
Theo ông Hà Tôn Hiến - giám đốc Công ty Công trình đô thị thị xã Gò Công, ngay trong tháng đầu hoạt động, nhà máy này đã có dấu hiệu “chết yểu”. Bởi theo yêu cầu, rác phải được phân loại ngay từ các hộ gia đình. Song chẳng người dân nào phân loại rác theo yêu cầu của địa phương. Họ không đồng ý chuyện để trước nhà hai bô rác (một chứa rác vô cơ, một chứa rác hữu cơ) và cho rằng chuyện này chẳng đem lại lợi ích gì mà chỉ tốn thời gian.
Công ty Công trình đô thị cố gắng cứu vãn bằng cách cho công nhân phân loại rác ở cuối nguồn. Tuy nhiên, công việc này cực kỳ vất vả bởi một khi không phân loại rác tại hộ gia đình thì khi chở ra tới bãi rồi công nhân không thể nào làm xuể. Vào mùa mưa, khi “dây chuyền công nghệ” của nhà máy hoạt động, chẳng những máy không thể đánh tơi rác ra được mà còn làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Dây chuyền của nhà máy Gò Công cũng không hoàn chỉnh. Chỉ với các công đoạn phân loại lần đầu ngâm nước 15 ngày, ủ 15 ngày cho hoại, sau đó phân loại lần thứ hai, cho qua sàng rồi xay nhuyễn với tổng thời gian khoảng một tháng rưỡi, phân bón hữu cơ vi sinh sau khi sản xuất chỉ mới ở dạng rác thô xay nhuyễn chứ chưa được gọi là phân bón. Trong hai năm 2001 và 2002, Công ty Công trình đô thị đã cố gắng lên tận Bình Dương tìm đầu ra cho phân bón vi sinh do nhà máy sản xuất. Thế nhưng cũng chỉ bán được hơn 10 tấn với giá 200 đồng/kg. Tiền thu được cũng chỉ đủ trả tiền xe vận chuyển. Số còn lại đem bón cho cây xanh trong toàn thị xã, nhưng đến hơn một năm sau số phân này vẫn chưa hoại!
Và do không thể tiếp tục bù lỗ (khoảng 60 triệu đồng mỗi năm) nữa, chính quyền thị xã Gò Công đã quyết định đóng cửa nhà máy từ đầu năm nay.

Nước chấm của Hoàng gia



Ông Cao Văn Hổ (Năm Hổ) chủ lò mắm tôm chà Kim Sa (thị xã Gò Công) chăm chút mẻ mắm đang phơi nắng
Ở Gò Công mấy trăm năm qua nói đến nước chấm người ta thường nhắc một đặc sản thượng hạng, từng được dọn trong những bữa yến tiệc trong Hoàng triều từ thời Thiệu Trị nên được dân gian xưng tụng là "nước chấm của hoàng gia" dù xuất thân của món ngon này hết sức dân dã, đó là mắm tôm chà.
Mắm tôm chà Gò Công xuất hiện từ bao giờ, không ai còn nhớ rõ. Nhưng theo ông Cao Văn Hổ (Năm Hổ), chủ lò mắm Kim Sa ở số 141 đường Phạm Ngũ Lão (khu phố 3 phường 2 thị xã Gò Công), mắm tôm chà chắc chắn phải có mặt trên đất Gò Công trước khi Thái hậu Từ Dũ được tiến cung. Bà đã mang theo món chấm độc đáo này, có nghĩa là tuổi đời của món mắm đặc sản đã có dư mấy trăm năm. Tới bây giờ cũng không còn ai biết bậc hiền nhân nào đã "sáng chế" ra loại nước chấm độc nhất vô nhị này, nhưng công thức sản xuất thì cả 5 lò mắm ở thị xã Gò Công hiện nay đều tuân thủ như nhau: muốn có mắm ngon thì nguyên liệu phải là tôm bạc đất chính cống quết nhuyễn với các phụ liệu là tỏi, ớt, muối, đường đem phơi 4 nắng. Sau đó chà lấy tinh chất của tôm và phụ liệu đem phơi tiếp 7 nắng nữa mắm mới thật chín, lên màu đỏ au bắt mắt. "Công thức chung là vậy nhưng các lò mắm đều có bí quyết riêng khi pha chế thịt tôm và các phụ liệu nên hương vị mắm đều khác nhau. Đặc biệt mắm tôm chà chỉ có thể phơi nắng cho chín, không thể dùng lò sấy khô", ông Năm Hổ nói.Khác hẳn các loại mắm ngon nổi tiếng của Nam bộ như mắm lóc, mắm sặt, mắm trèn, mắm cá linh… ngoài việc ăn sống còn có thể đem kho hoặc chưng hay chế biến thành nhiều món khác (tỉ như nấu lẩu), mắm tôm chà Gò Công chỉ dùng duy nhất một mục đích: pha với tỏi, ớt, chanh, đường để được một thứ nước chấm thượng hảo hạng, ăn với bánh tráng rau sống, thịt luộc, tôm luộc thì… hết chỗ chê! Chưa từng nghe ai nói đã đem mắm tôm chà nấu lẩu hay chưng, kho như mắm linh, mắm lóc. Nhưng ở Gò Công người ta vẫn thường thấy mấy bậc kỳ lão khi nhậu vô vài ly rượu đế với món ăn có nước chấm là mắm tôm chà thì khoái chí vỗ đùi cười ha hả kể cho con cháu hậu sinh nghe rằng, thời Pháp thuộc mấy ông quan địa phương muốn lấy lòng các quan Tây nên buộc dân chúng xứ Gò phải làm mắm tôm chà để đem cống nạp. Không biết mấy ông quan bản xứ hướng dẫn quan Tây ăn mắm ra sao, chỉ thấy ông Tây bà đầm thường quệt mắm tôm chà nguyên chất vào miếng bánh mì xăng-quýt thay bơ, phó-mát vừa ăn vừa xuýt xoa khen "très bien!" rần trời, báo hại đám con dân chạy kiếm tôm bạc đất làm món ngon cống nạp không kịp thở. Cũng có người nói, giữa trưa đói bụng mà bốc một cục cơm nguội quệt chút mắm tôm chà nguyên chất bỏ vào miệng thì không còn gì tuyệt bằng. Nhưng mấy bậc bô lão cho rằng ăn như vậy thiệt phàm phu tục tử…!Mặc dù có tuổi đời mấy trăm năm nhưng mắm tôm chà Gò Công chỉ mới được dân sành ăn xa gần biết tiếng chưa đầy chục năm gần đây. Lão tiền bối Năm Hổ kể rằng, trong những câu chuyện do ông bà nhiều đời truyền lại đều có chi tiết: mắm tôm chà ngày xưa được người Gò Công xem là món quà quê trân quý, chỉ dùng để biếu tặng mỗi dịp lễ tết hoặc sử dụng vào dịp giỗ chạp, không ai làm mắm để bán. Ông Năm Hổ cũng không ngoại lệ, dù nghề làm mắm tôm chà là gia truyền nhưng cách nay 20 năm gia đình ông mỗi năm chỉ làm vài ký để biếu bà con họ hàng ăn lấy thảo, không xem nghề này là kế sinh nhai. Mãi đến khi tỉnh Tiền Giang chọn mắm tôm chà là một món ngon thuộc hàng đặc sản cần phải giữ gìn, phát triển để phục vụ du lịch và quảng bá trong thiên hạ thì nghề làm mắm tôm chà ở Gò Công mới được "thương mại hoá". Nhưng đến nay xứ Gò Công cũng chỉ có 5 cơ sở sản xuất, mỗi năm tung ra thị trường vài ngàn ký. Ông Năm Hổ nói, năm nào Tết Nguyên đán Việt kiều cũng thuê xe xuống Gò Công đặt làm mắm tôm chà để mang đi, ăn dần cho đỡ nhớ quê. Mở được cửa hàng bán loại nước chấm thượng hảo hạng này ở nước ngoài là chuyện ông Năm Hổ luôn ao ước. "Tui đi du lịch nhiều nước rồi, đi tới đâu cũng lận theo keo mắm tôm chà để chào hàng, bà con mình chịu quá. Có điều, tới lúc mở được cửa hàng ở nước ngoài, đơn đặt hàng nhiều quá thì không biết làm sao có đủ tôm bạc đất để làm mắm à nghe", ông Năm Hổ lo xa.
T.Dung - SGTT

Thứ Ba, 27 tháng 2, 2007

Chào các bạn

http://img225.imageshack.us/img225/9839/blogop2.gif

Hôm nay - Sau 3 ngày mạng Việt nam đã được khôi phục trở lại sau sự cố đứt cáp quang sau trận động đất tại Đài Loan.
Sau một thời gian lục lọi thì cuối cùng thì cũng vào được NET nhưng khá chập chờn. thì cuối cùng Blog của tôi cũng được tạo.

Vì đây là bài viết đầu tiên nên cũng có phần lủng củng mong các bạn thông cảm cho tôi nhé!

Bộ sưu tập hình

Xin tự giới thiệu:

Họ tên: Lê Thành Trai
Ngày sinh: 01/07
Nghề nghiệp: KTV tin học
Sở thích: lướt web
Tình trạng hôn nhân: đã có 1 vợ và không con.

Địa chỉ liên lạc: Gò Công Đông - Tiền Giang - Việt Nam

Email: lethanhtrai@gmail.com

Tiền Giang quê tôi

http://www.hoilhpn.org.vn/images_upload/small_2092.jpg

Sáng tác: Trung Nhật
Trình bày: Phương Dung
Hò ơi..Tiền Giang cây cối xanh tươi
Có dòng sông đục có người tôi mong
Ai về chợ Lách Vĩnh Long
Hay đi Bến Đức, Gò Công, Định Tường
Hò ơi..Đường chiều qua ngõ Trung Lương
Long An muốn tới Kiến Tường còn xa
Dù cho cách trở sơn hà
Xin ghi tâm sự
Hò ơi...Xin ghi tâm sự quê nhà Tiền Giang


Hò ơi..ơi hò..hò ơi..ơi hò..hò ơi ai hò lơ
Tiền Giang quê tôi tình thương ấp ủ cuộc đời
Thời gian phô pha bây giờ xa quá là xa
Giòng sông mênh mông mai chiều nước đục lại trong
Hương tràm trôi dạt thơm nồng
Từng đàn cò bay cao vút.
Tiền Giang thân yêu dừa xanh Kiến Hòa ngọt ngào
Gò Công quê ta trong vườn cây cối đầy hoa
Ruộng xanh Long An lưng trời nắng chiều gần tan
Câu hò dã gạo chan hòa
Hồn quê gieo ngối nhà.
hò ơi..ơi hò..hò ơi..ơi hò..
Bao giờ về chợ Lách thân yêu
Ta lại nhìn sông nước trong veo
Nhìn Bến Nức bên bờ cánh đồng sâu
Nhìn bầy trâu nói nhau sau nhịp cầu..
hò ơi..ơi hò..hò ơi..ơi hò..hò ơi ai hò lơ
Tiền Giang quê ta tình thương Kiến Tường đậm đà
Từ bao lâu nay tôi thầm nhắn với trời mây
Dù cho tha hương, những ngày trôi dạt Trùng Dương
Những mùa đơn lạnh trăng tà
Lòng tôi luôn nhớ nhà
Bao giờ về quê quán thân yêu
Ta lại nhìn sông nước trong veo
Nhìn lúa chin bên bờ cánh đồng sâu
Nhìn bầy trâu nối nhau sau nhịp cầu
hò ơi..ơi hò..hò ơi..ời hò..hò ơi ai hò lơ
Tiền Giang quê ta tình thương vẫn còn đâm. đà
Từ bao lâu nay tôi thầm nhắn với trời mây
Dù cho tha hương, những ngày trôi dạt Trùng Dương
Những mùa đơn lạnh trăng tà
Lòng tôi luôn nhớ nhà

Trưa hè trên bãi biển Gò Công

http://ct.pbase.com/t1/47/630047/4/55210286.php328copy.jpg

Sáng tác: Lê Dinh

Trình bày: Thanh Tuyền


Một trưa hè trôi êm trôi êm,
trên sóng biển chiều nao chung bước.
Biển xanh xanh, trời xanh màu ngọc bích;
Cuối tầm nhìn, trời nước gặp nhau.

Nước rời bãi con dã tràng xe cát,
sóng vỗ bờ con chim nhạn vờn bay
Sáng tinh mơ dấu chân người in cát,
nắng chói chang về làm rát bỏng bàn chân...

Có phải chăng cát giận cát hờn,
chẳng muốn nhận dấu chân anh làm kỷ niệm.
Để cát bay cát tạo thành hình cuộc sống,
để bên bờ... cát mãi đùa vui

Nếu không nghe được nhạc, bạn hãy thử nhấn vào nút play và đợi vài giây




(Right click and choose Save target as... to download)

Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2007

Một số hình của lớp 12A6 khóa 38 , 1996 - 1999
















Tiếng kêu cứu của những ngôi nhà cổ...!

Thị xã Gò Công vốn là “thủ phủ” của các huyện phía Đông tỉnh Tiền Giang - nơi hội tụ, giao lưu văn hóa, nghệ thuật, kinh tế của toàn khu vực. Giá trị này đã ăn sâu vào nếp ăn, nếp nghĩ, sinh hoạt của người dân Gò Công từ bao đời nay. Tuy nhiên, trước tốc độ tăng trưởng nhanh chóng trên khắp các lĩnh vực trong đời sống hiện nay thì liệu vai trò “thủ phủ” cũng như những giá trị truyền thống có còn được lưu giữ nổi?

Nhà ông Bùi Doãn Cung

Nhắc đến thị xã Gò Công, ai cũng đều có một cảm nghĩ đó là một vùng còn hàm chứa nhiều nét cổ kính và tự nhiên nhất vùng ĐBSCL. Vùng đất xứng danh “địa linh nhân kiệt” này qua năm tháng vẫn còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử có giá trị, những danh nhân được người dân tự hào tôn vinh. Ngoài một số quan chức thời Nguyễn, Gò Công còn là nơi sản sinh nhiều danh nhân tên tuổi trong đời sống xã hội đương thời, nhất là về văn hóa, giáo dục, chính trị như Thái hậu Từ Dụ, Hoàng hậu Nam Phương, Trương Định, Hồ Biểu Chánh... Các di tích lịch sử được bảo vệ, lưu truyền như lăng mộ họ Phạm (tổ tiên của bà Từ Dụ, mẹ Vua Tự Đức), mộ Trương Định xây cất vào năm 1864 bằng đá ong trộn ô dước, mộ bia bằng đá trắng Quảng Nam khắc đầy đủ chức tước của ông: “Đại Nam Bình Tây Đại tướng quân Trương Công Định chi mộ”.

Bên cạnh các di tích có giá trị vừa kể, hiện tại Gò Công còn tồn tại nhiều ngôi nhà cổ nhất tỉnh. Theo tư liệu lịch sử (hiện còn lưu giữ ở Phòng Văn hóa Thông tin thị xã Gò Công) tỉnh Gò Công trước đây có 40 làng, người dân thường gọi là “làng Thành Phố”. Nhà cửa nơi này lúc đó chỉ toàn làm bằng lá, đến năm 1862 mới được xây bằng những ngôi nhà tường vững chắc. Năm 1862 cũng là năm “làng Thành Phố” trở thành tỉnh lỵ Gò Công. Năm 2002 tổ chức JICA của Nhật đến khảo sát thì Tiền Giang có 350 ngôi nhà cổ mà riêng TX Gò Công có đến 2/3 loại nhà cổ giá trị này.

Khoảng 3 năm trở lại đây tốc độ phát triển của TX Gò Công khá nhanh. Đặc biệt, là những thay đổi về diện mạo đô thị thông qua việc đầu tư cơ sở hạ tầng. Những ngôi nhà mới được cất lên khang trang “ăn theo” những con đường nội ô vừa được nâng cấp, mở mới, đã tô điểm thêm nét đẹp vốn có của “làng Thành Phố” thuở nào. Đến hết năm 2004, thị xã đã hoàn thành việc nâng cấp 20 tuyến đường nội ô với đầy đủ hệ thống cấp thoát nước, chiếu sáng, vỉa hè, cây xanh đồng bộ; mặt đường được trải bê tông nhựa. Đường Trương Định được xem là đẹp nhất thị xã. Song song đó còn mở nhiều tuyến đường trọng điểm nhằm mở rộng đô thị trung tâm theo hướng Bắc - Nam tạo điều kiện cho thị xã tiếp cận dễ dàng, thuận tiện hơn với khu du lịch biển Tân Thành và Quốc lộ 50 đi TPHCM. Đồng thời, chợ mới Gò Công cũng đã được đưa vào sử dụng nhằm thúc đẩy giao lưu hàng hóa, dịch vụ, thương mại cho toàn vùng. Đình Trung đã được trùng tu nâng cấp đáp ứng mong mỏi của nhân dân về một địa chỉ thờ cúng đã ăn sâu vào tâm linh người dân Gò Công. Hàng loạt những di tích lịch sử văn hóa đã được đầu tư tôn tạo nhằm giáo dục truyền thống và phát triển du lịch như đền thờ lăng mộ Trương Định, di tích kiến trúc nghệ thuật (nhà cổ, được xây dựng cuối thế kỷ XIX) của Đốc phủ Nguyễn Văn Hải, Nhà truyền thống thị xã (nhà bà Lâm Tố Như xây dựng năm 1933)...

Nhà cổ của Đốc phủ Nguyễn Văn Hải

Năm 2005 tỉnh Gò Công sẽ mời các ngành tư vấn thiết kế, khảo sát lập kế hoạch thực hiện dự án nâng cấp, mở rộng Khu di tích lịch sử Lăng Hoàng gia. Trong đó, dự kiến vùng qui hoạch rộng 70 - 100ha xây dựng hoàn thành lăng mộ này gắn liền với tour du lịch của Tiền Giang. Dự án đó nếu được hoàn thành thì ai muốn tìm lại dấu tích xưa một thời của cha ông thì TX Gò Công cũng vẫn là một địa chỉ thích hợp.

Dù hiện tại ở đây số nhà cổ còn lại khá nhiều, nhưng chỉ có những ngôi nhà thuộc sở hữu Nhà nước mới được gìn giữ như nhà Đốc phủ Hải, Nhà Truyền thống TX, Đền thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng... còn nhà tư nhân thì chịu! Cán bộ quản lý di tích TX Gò Công cho biết: Biết rằng để những ngôi nhà cổ của dân mất dần là rất đáng tiếc, nhưng biết làm sao được khi ngay cả kinh phí bảo quản tôn tạo di tích nhà cổ thuộc sở hữu Nhà nước còn gặp khó khăn. Hiện tại những ngôi nhà cổ thuộc dạng phố (kiểu như ở Hội An, Quảng Nam) hầu như không còn, còn chăng là những ngôi nhà biệt lập, nằm rải rác trong thị xã. Tất cả đều có chung một thực trạng là “xuống cấp trầm trọng, hư đâu vá đó. Theo người trông coi nhà của thầy Tăng Tiến Minh (đang định cư ở Mỹ) thì căn nhà này có tuổi thọ trên 100 năm, đang xuống cấp trầm trọng, những ngày mưa phải dùng thau hứng nước nhiều nơi. Để trùng tu, tốn đến vài tỉ đồng, tiền đâu và trùng tu để làm gì?! Giải pháp mà chủ nhà đang nhắm tới là đập bỏ để xây mới! Hay nhà của ông Bùi Doãn Cung xây dựng khoảng năm 1895 ở ấp Gò Tre, xã Long Thuận. Đây là ngôi nhà cổ đặc trưng Nam bộ nhất trong vùng. Ngôi nhà này có dạng chữ đinh, lợp ngói âm dương, vách gỗ, cột căm xe, có diện tích 300m2 nay đã mục nát nhưng chủ nhà đành nhìn mà chịu, hễ dột đâu chèn đó! Thầy Phạm Đăng Thanh, người đang cai quản ngôi nhà cho biết sẵn sàng để nhà nước trùng tu khai thác nhưng không được chấp thuận! Nhà ông Mười Cần (số 112, đường Nguyễn Văn Công) tuy xót xa cho tình trạng xuống cấp nhưng ngại để Nhà nước tham gia trùng tu vì sợ ảnh hưởng đến chủ quyền! Đây cũng là tâm lý phổ biến nhất của các chủ sở hữu nhà cổ. Chính vì thế mà việc trùng tu duy trì nhà cổ ở Gò Công hiện nay đang rơi vào tình trạng bế tắc.

Không biết khi tìm ra được hướng giải quyết để giữ gìn thì nhà cổ Gò Công sẽ còn lại bao nhiêu?

http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/ngaynaynamxua/2005/03/402523/

Hủ tíu Việt Nam - (... lò Tám Thảo dưới Gò Công)

Hủ tíu - còn gọi hủ tiếu - là món ăn phổ biến khắp phía nam, đến nay đã xuất hiện ở miền trung và miền bắc. Trong các chương trình liên hoan văn hóa ẩm thực Việt Nam tại nước ngoài, đặc sản hủ tíu luôn được trân trọng giới thiệu. Tuy nhiên, dẫu từng nấu và xơi hủ tíu hoặc thỉnh thoảng hoặc thường xuyên, nào phải ai ai cũng hiểu rõ gốc gác cùng bao biến thể của món ăn này.

Từ đâu ? Bao giờ ?

Bấy lâu, không ít người cứ bảo món ăn này xuất xứ từ đất nước Chùa Tháp láng giềng vì thường nghe "hủ tíu Nam Vang". Kỳ thực, vậy mà... chẳng phải vậy !

Cái tên hủ tíu/hủ tiếu, vốn bắt nguồn bởi tiếng Hán quả điều mà dân Tiều (Triều Châu) phát âm thành cổ chéo. Nghĩa là "bánh sợi". Thì đấy là sợi bánh bằng bột gạo, gần giống bánh phở (âm Hán-Việt: phấn, nghĩa gốc là bột) song hủ tíu khác cơ bản ở chỗ sợi bánh thường được sấy khô, lúc chuẩn bị ăn mới trụng nước sôi và chần mỡ hành phi cho mềm-thơm-bùi-béo.

Như thế, trên cơ sở từ nguyên, có thể thấy rằng món hủ tíu thông dụng xưa nay khắp "Nam Kỳ lục tỉnh" vốn từng được khai sinh tít tận Trung Hoa rồi du nhập vào nước ta qua biên giới tây nam sau một thời gian "quá cảnh" tại Campuchia. Và cũng tương tự phở (ngầu phảnh/ngưu nhục phấn) cực kỳ phổ biến ở Bắc Bộ, món hủ tíu ngoại lai dần được Việt hóa theo bao cung cách khác nhau để trở thành đặc sản quen thuộc "đậm đà tính dân tộc" trên dải đất cong cong hình chữ S.

Một Việt kiều ở Pháp vẫn được bạn bè quen gọi bằng biệt danh Sous Chef vì anh từng làm bếp phó tại một khách sạn lớn giữa thủ đô Paris và từng đi đó đi đây để trao đổi nghiệp vụ "dao thớt". Sous Chef nói: Gặp dịp khảo sát món hủ tíu ở Bắc Kinh, Quảng Châu và Hồng Công (Trung Quốc) cũng như ở Phnom Penh (Campuchia) mọi người Việt chắc đều ngạc nhiên nhận ra hủ tíu những nơi ấy rất khác hủ tíu quê nhà. Khác và không ngon bằng ! Sợi bánh của họ ít dẻo thơm bằng. Nước lèo (nước súp) của họ thì kém trong, kém ngọt. Còn tôm thịt cùng gia vị cũng tồn tại lắm dị biệt.

Những "biến tấu" hấp dẫn

Sous Chef còn nêu ý kiến đáng chú ý: Nhiều nước, hủ tíu tồn tại cũng chỉ vài ba "chủng loại". Riêng Việt Nam, thật đặc sắc, hủ tíu được phát triển tới hàng chục kiểu khác nhau.

Về phở, giáo sư Phan Ngọc chịu khó lục lọi sách vở và thống kê thấy 17 kiểu cả thảy. Tôi thì la cà nhà hàng, quán xá, quầy, sạp, xe, gánh ở một số tỉnh thành phía nam, ghi nhận chưa đầy đủ được 25 kiểu hủ tíu. Này nhé: hủ tíu Nam Vang, hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Sa Đéc, hủ tíu mì, hủ tíu nui, hủ tíu hoành thánh, hủ tíu xào, hủ tíu xá xíu, hủ tíu thịt băm, hủ tíu sườn heo, hủ tíu lòng heo, hủ tíu cá, hủ tíu cua, hủ tíu tôm, hủ tíu gà ta, hủ tít gà ác, hủ tíu bò kho, hủ tíu bò viên, hủ tíu bò tái, hủ túi bò sa tế, hủ tíu nai sa tế, hủ tíu vịt quay, hủ tíu nấm, hủ tíu măng, hủ tíu chay. Nói chung, mỗi kiểu đều chia 2 dòng là khô và nước, do đó nhân đôi lên vị chi món hủ tíu đã có sơ sơ 50 kiểu. Tùy nơi, tùy lúc mà các kiểu được linh động tổ hợp thành "model" mới như hủ tíu mì-nui-hoành thánh, hủ tíu cá-tôm-cua, hủ tíu nấm-măng, hủ tíu thập cẩm v.v. Ấy là tôi chưa liệt kê đôi kiểu "độc chiêu" thỉnh thoảng bắt gặp ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như hủ tíu chuột, hủ tíu dơi, hủ tíu rắn, hủ tíu rùa. Thời gian qua, bên cạnh mì ăn liền nhiều loại hủ tíu ăn liền còn xuất hiện nhan nhản trên thị trường, âu cũng góp phần làm phong phú thêm bảng thực đơn "chuyên đề" hủ tíu .

Nói theo lý luận bếp núc Âu Mỹ, thì hủ tíu nằm trong hệ thống mỹ vị Pháp (gastronomie) vô cùng phong phú vì nó mang tính cách mở, linh hoạt, phóng khoáng, dễ hội nhập và thích ứng. Như vậy, tô hủ tíu phản ánh phần nào tính cách lẫn bản sắc của người dân Nam Bộ.

A Cánh - một chủ tiệm hủ tíu người Việt gốc Hoa ở quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh - tiết lộ: Gia đình ngộ (tôi) ít nhất đã ba đời sống bằng nghề này. Cũng như bún bò và phở, muốn nấu hủ tíu ngon thì phải đặc biệt chú ý tới nồi nước lèo. Hủ tíu khô hay uớt gì cũng cần nước lèo, chỉ khác là hủ tíu khô phải dọn nước lèo riêng thôi. Nồi nước lèo ngọt thơm nhờ hầm xíu quách (trư cốt: xương heo), củ cải, tôm khô và khô mực nướng. Ngộ còn thả thêm miếng xí pố (khô cá) nướng thiệt thơm. Bán hủ tíu mì, các quán chuyên nghiệp thường tự sản xuất sợi mì cho đúng ý, đồng thời chế biến xíu mại cùng tài páo (bánh bao) luôn. Dọn tô hủ tíu cũng phải lưu tâm kỹ các thứ gia vị cần thiết như zìm (muối), tsu (dấm), chương dẩu (xì dầu/nước tương), càng không thể quên tăng xại (đông thái).

Đông thái là cải bắc thảo thái mỏng và muối khô, một loại "phụ tùng" độc đáo thường thấy các tiệm hủ tíu đựng trong thạp gốm tráng men màu da lươn. Sau khi bỏ bánh sợi và mì sợi vào vợt kim loại nhúng xuống thùng nước sôi rồi trút vô tô, đầu bếp nhón một ít đông thái, thêm tóp mỡ, giá trụng thả vô tô nốt. Tiếp theo là đặt xá xíu thịt băm, miếng gan heo, quả trứng cút; kế đó rắc lá hẹ (chứ không phải hành lá) xắt nhỏ, rồi múc nước lèo chan vô tô. Cuối cùng, bứt ngọn xà lách xanh muốt làm đôi, bỏ trên mặt tô và dọn mời. Thực khách tùy gu mà thêm dấm, ớt, tiêu, xì dầu, đoạn trộn đảo và xưởng xích (thưởng thức) nóng sốt. Khi dùng, có người gọi thêm chén xíu mại, có người xơi kèm chiếc bánh quẩy (giò cháo quẩy).

Ấy là món hủ tíu mì quen thuộc. Thay mì bằng nui, bằng hoành thánh (vằn thắn), thành hủ tíu nui hay hủ tíu hoành thánh. Tô hủ tíu sườn thì lổn nhổn mấy miếng sườn heo non nấu hồng nhự (chao đỏ) với hương vị rất đặc trưng. Hủ tíu bò kho, bò viền, bò tái, bò sa tế hoặc hủ tíu gà cũng khác xa phở bò, phở gà. Hủ tíu bò sa tế nổi tiếng trên địa bàn TP Hồ Chí Minh có ba quán cùng lấy hiệu Tô Ký do ba anh em ruột làm chủ, hai quán thuộc quận 6, một quán thuộc quận 5. Riêng hủ tíu gà, ở TP Hồ Chí Minh có mấy tiệm "chuyên trị" món này tọa lạc trên đường Nguyễn Trãi. Nồi nước lèo dành cho hủ tíu gà phải hầm toàn xương gà với củ cải, thảo quả, mục quả (đu đủ) cùng gia vị, sao cho nước ngọt thanh và trong veo. Thịt gà xé đặt lùm lùm miệng tô, cùng mề, gan, tim, cật gà đã được xử lý bằng bí quyết riêng, ăn sao thấy lạ miệng và ngon đáo ngon để. Các loại hủ tíu thủy hải sản (cá, tôm, mực, cua,v.v.) giá cả thường đắt nhất, có tiệm tính tới 25.000 đồng/tô, song chẳng phải chỗ nào cũng nấu đạt chất lượng.

Ba bảy là gì ?

Nhiều người "nghiện" hủ tiếu cho biết: Muốn ăn hủ tíu tôm thì ghé ngã năm Bình Hòa ở quận Bình Thạnh. Hủ tíu cá, phải lên Chợ Lớn. Hủ tíu cua, về Gò Vấp. Nhưng mấy món hủ tíu thủy hải sản, chưa đâu nấu cừ khôi bằng quán chú Xồi ở miệt Lái Thiêu (Bình Dương).

Chú Xồi hoặc chú Chệc chỉ là tên gọi chung đàn ông Hoa kiều. Thực tế, tại nhiều thị tứ phía nam, đa số quán tiệm hủ tíu đắt khách thường do bà con người Việt gốc Hoa đứng bếp. Phần lớn các tiệm này cũng là "mì gia" treo biển hiệu song ngữ Việt - Hoa mà thoạt trông dễ nhận biết (và cũng dễ bị giả mạo) là hiệu danh chứa hậu tố Ký như Diệu Ký, Lưu Ký, Tuyền Ký, Hưng Ký, Hồng Ký, Tô Ký, Quang Ký, Oai Ký, Phánh Ký, Zìn Ký. Gia vị dùng cho hủ tíu cũng đậm đặc chất Tàu: nào đông thái, nào dấm đỏ, nào hắc xì dầu, v.v. Vậy mức độ Việt hóa món ăn này thể hiện ở điểm nào ? Sous Chef phân tích nghe khá hợp lý: Hủ tíu là món gốc Hoa, nhưng đã Khmer hóa và nhất là Việt hóa để thích nghi thủy thổ, cơ địa. Rõ rệt nhất là tô hủ tíu Mỹ Tho. Anh biết rằng tập quán ngươi Hoa là dùng dấm, xì dầu và hầu như chẳng bao giờ ăn rau sống. Hủ tíu Mỹ Tho thì dùng chanh, giá sống cùng lắm loại rau mùi, và độ mặn nhạt được nhấn nhá bằng thứ gia vị chính cống Việt Nam: nước mắm.

Tôi đã về thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) để lai rai khảo nếm món hủ tíu lừng danh nơi dãy quán quanh khu vực cầu quay. Ba Châu - chủ tiệm hủ tíu đắt khách trên đường Trưng Trắc - cho biết: Một trong những yếu tố tạo nên nét riêng của hủ tíu Mỹ Tho là bánh sợi. Sợi bánh được làm từ gạo Gò Cát dẻo thơm, loại gạo mà không phải đất nào cũng trồng được. Hiện cả tỉnh Tiền Giang có hai lò sản xuất bánh hủ tíu số zách: lò Bảy Hưng ở ngay Mỹ Tho, và lò Tám Thảo dưới Gò Công. Còn bí quyết nấu hủ tíu ngon hả? Phải xử lý nguyên vật liệu và gia vị sao để nước lèo, thịt thà, rau củ thiệt là vừa miệng. Khoản này thuộc loại gia truyền, khó chỉ bày chi tiết cụ thể lắm à !

Bên cạnh hủ tíu Mỹ Tho, đất phương nam còn nổi tiếng hủ tíu Sa Đéc. Khách sành điệu ở Sài Gòn vẫn còn nhắc quán hủ tíu chính hiệu Sa Đéc do một ngôi sao sân khấu mở tại góc đường Hùng Vương - Nguyễn Tri Phương vào khoảng năm 1973: bà Năm Sa Đéc, người bạn đời của nhà sưu tầm cổ ngoạn Vương Hồng Sển. Bây giờ, hai ông bà đã quy tiên, quán xưa cũng thay tên, đổi chủ. Thèm tô hủ tíu thơm mùi gạo Tân Khánh, hiện chỉ còn cách lặn lội về tỉnh Đồng Tháp, vượt sông Tiền, ghé thị xã Sa Đéc mà lùng sục. Há lẽ ăn tô hủ tíu, chạy ba quãng đồng ?

Đặt vấn đề bếp núc vùng (cuisine réogionale) học giả J. F. Flandrin yêu cầu tiếp cận các món ăn đặc biệt ở mỗi khu vực địa lý nhằm phát hiện "mô hình cấu trúc của hệ thống thực tiễn và khẩu vị ẩm thực của một vùng có gì khác so với các vùng lân cận". Áp dụng phương pháp chọn mẫu, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra ba món phổ biến đại diện cho ba phong cách bếp núc vùng của nước ta: miền bắc có phở Hà Nội, miền trung có bún bò giò heo Huế, miền nam có hủ tíu Mỹ Tho hay hủ tíu Sa Đéc. Nhìn từ góc độ nào đấy, tô hủ tíu miền nam không chỉ là món đặc sản. Luận theo giáo sư Trần Quốc Vượng, tô hủ tíu còn là hiện vật sống động biểu hiện cả quá trình "đan xen, hỗn dung, tiếp biến, giao thoa, tương tác của văn hóa Việt Nam nói chung, của nghệ thuật ẩm thực Việt Nam nói riêng".

Hủ tíu kia cũng có ba bảy đường chế biến, soạn bày, thưởng thức và nhận định. "Ba bảy" đây chẳng phải "3 hay 7", cũng chẳng phải "từ 3 đến 7", mà là "37" (băm bảy) hoặc nhiều hơn...

Vàm Láng vào xuân

Vàm Láng vào xuân
Nguyễn Chi


NÓI LỐI:

Mùa xuân nầy tôi về thăm xứ biển,

Vàm Láng bây giờ có khác ngày xưa

Nỗi nhớ dài theo nắng nhặt mưa thưa

Bài Lý con sáo Gò Công miên man gợi nhớ...

LÝ CON SÁO GÒ CÔNG:

1) Ở... ở...

Quê mình đẹp lắm mà Gò Công ớ nầy thuỷ chung...Ớ ơ...

Qua bao mưa dầm nắng dãi... Ở... ở...

Vẫn nồng vẫn nồng tình quê

Cái Lý Song mã cái lý Tình tang

Yêu quê mình, người Gò Công yêu đất Gò Công...

2) Ở... ở...

Quê mình đẹp lắm biển trời bao la hỡi Gò Công ơi Ớ ơ...

Sóng xa sóng còn nhớ mãi...Ở... ở...

Huống gì huống gì lòng ta

Cái Lý Song mã cái lý Xàng xê

Mai ta về, về thăm quê biển những ngày xuân...

(Láy)

Mai ta về, về thăm quê biển những ngày xuân...

VỌNG CỔ:

Từ giã quê hương miền biển mặn, lâu lắm chưa được về thăm lại Gò Công thăm ruộng muối năm xưa, thăm giàn đáy...

1) ...song cầu... Giữa trùng dương bao ngọn sóng bạc đầu...Người bạn đáy bây giờ chắc già hơn thuở trước, nước biển muối lòng nên mái tóc chớm hoa râm(-) Ơi! Cửa mở sông Tiền về với biển Đông, theo lạch biển lòng sông chắt chiu từng mẻ lưới. Làm sao quên những chuyến ra khơi, dưới ánh nắng xuân nghe ấm nồng hương biển (-)

2) Sâu lắng đâu đây tiếng gió gào mùa chướng động, hay tiếng gió Nam kha êm ả gọi tên mình... Mây nước quê hương trong mơ ước thanh bình... Thèm một chút ngã lưng lên chòi lá, bên bếp lửa đỏ hồng nướng con tôm tích gạch son(-). Một cốc rượu ấm lòng nhấm nháp vị thơm ngon, đĩa mực tươi đậm đà hương muối biển. Hãy lặng ngắm một lần biển trời quê mẹ, trong cánh sóng bạt đầu đã ấp ủ dáng bình minh (-)

NÓI LỐI:

Ta chợt nghe thèm cơn sóng biển

Vỗ mạn tàu đêm lay lắc ánh sao say

Kéo túi đục đầy, mặt nám tay chai

Ủ mặn giọt mồ hôi chảy về qua lạch biển...

VỌNG CỔ:

Đâu phải mùa xuân nầy trở về đây tôi mới thèm nghe cơn sóng biển, mà nỗi nhớ niềm thương đã từ lâu lưu luyến bước...

5) ...sông hồ... Nhớ biển thương quê mình giữ vẹn câu thề... Có những đêm hành quân qua rừng vắng, sương thắm lạnh vai mình ngỡ sóng vỗ trên vai (-) Một ánh sao bay qua góc rừng sâu thẳm, chợt nhớ dưới khoang thuyền ngôi sao nhỏ lắc lư. Những chấm sáng lân tinh trong góc rừng lặng lẽ, ngỡ trăng biển vừa soi lấp lánh trăng đầy (-)

6) Mặn nước mặn đời đôi tay thêm dẻo, quẹt mồ hôi nghe mắt xé cay (-) Một mẩu thuốc chia hai dưới trời xuân lành lạnh, bên người bạn đáy nghèo tâm sự suốt đêm thâu. Với biển với trời nâng buồng tim rộng rãi, giữa sóng gió ngàn trùng nỗi nhớ chợt mênh mông. Khi túi đục căng phồng ta kéo cả mặt trời lên, ủ lửa vào tim mà thương biển quê mình...

Xuân nầy về xứ biển Gò Công

Tôi mang theo cả nỗi lòng mến thương.

Dẫu đi trăm hướng ngàn phương

Vẫn thương người bạn đáy, với đời thường biển quê...




NGUYỄN CHI

Chung Một Dòng Sông

Sáng tác: Hoàng Phương

Ảnh “http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/3/37/Malpighia_glabra.jpg/240px-Malpighia_glabra.jpg” không hiển thị được, vì nó chứa lỗi.

Anh miền Gò Công quê hương Trương Định
Em xứ dừa xanh ngát Bến Tre
Cùng chung bên nhau con nước sông Tiền
Say đắm tình quê hương thủy chung
Mưa nắng hai mùa xao xuyến tình vấn vương

Trang sử hùng Gò Công quê hương Trương Định
Trang thơ hồng Đồ Chiểu Bến Tre
Gọi nhau qua con sóng vỗ về
Trăng hữu tình xanh xanh rừng lá
Cao ngất tấm lòng nghe tiếng đàn miền Đông
Đất nước yên vui nghe màu xanh giục giã
Con nước sông Tiền chở nặng phù sa
Trên những con tàu chiều ra biển rộng
Cây lúa trên đồng xanh lá đơm bông

Em đi về Gò Công thăm quê miền cát mộng (bỏng)
Anh đi về chiều nặng bóng dừa xanh
Tình ca quê hương như máu tim cội nguồn
Tha thiết tình sinh sôi Cửu Long
Chim én bay về khua xao động tình quê

Cụ Bi - người sống qua 3 thế kỷ.

Ảnh “http://www.vov.org.vn/Upload/2006021115000960741823_T.Jpg” không hiển thị được, vì nó chứa lỗi.
Ảnh minh họa


“Đời người như con đường. Khi bé thơ, ta chập chững tập đi. Thời thanh niên, ta chạy. Rồi lại tập đi khi đến hồi thất thập. Nhưng nếu sống qua được tuổi 100 thì ta không tập, không đi, cũng không chạy nữa, mà chỉ ngồi bên đường, mỉm cười ngó người ngược xuôi”. Có một đời người trải dài ba thế kỷ đã chiêm nghiệm ra điều ấy.

Cội đa già ở góc vườn rụng lá lác đác trên sân vắng. Cánh cửa chỉ khép hờ để nắng chiều rọi xiên xiên lên những câu liễn xưa. Cụ bỏ quyển sách đang đọc dở khi thấy có khách lạ vào nhà. Tôi rụt rè cúi chào. Cụ móm mém: "Bây được chừng tuổi rồi?". Nghe tôi trả lời tuổi 28, cụ chỉ cười: "Cỡ sắp chít của ta thôi".

"Đời chỉ như ngọn cỏ"

Cụ tên Ngô Văn Bi. Ở đất Gò Công, Tiền Giang hình như ai cũng biết và kính mến cụ. Sinh năm 1896, cụ là nhân chứng hiếm hoi vắt dài qua ba thế kỷ của miền đất lắm thăng trầm này.

Răng không còn chiếc nào, cụ phào phào tiếng gió kể về cuộc đời mà cụ nói rằng: "Bây thích thì ta kể nghe chơi chứ đời ta có đỗi gì lạ đâu. Nó giản đơn, quê mùa hệt như ngọn cỏ đã sinh ra trong đất thì phải xanh, hết xanh đến già, rồi tới ngày cũng phải chết để đất cho cây khác nảy mầm…".

Bận xưa tía má cụ là người mần ruộng. Cụ ré tiếng khóc đầu tiên trong cuộc đời cũng trên cánh đồng xanh mượt màu lúa. Tía cụ nghèo, không đầy bồ kinh thư trong bụng nhưng rất kính người học chữ. Ngay lúc tóc cụ còn lởm chởm ba vá miếng dừa, tía đã gửi cụ cho ông thầy đồ ở đầu làng.

Thời giặc giã. Trò đói, thầy rách. Việc rèn chữ, rèn người được đổi bằng mấy giạ lúa cuối năm. Những chiều nắng ráo, thầy trò trải chiếu ngoài sân cùng đọc sách thánh hiền. Ngày mưa dầm, khói phân trâu hun muỗi, ánh lửa lá dừa lập lòe thay bấc dầu để học chữ trong lều tranh.

Lên lứa thanh niên cụ lại học thêm tiếng Tây từ mấy cậu nhà giàu đi học Sài Gòn về. Nhưng đây cũng là giai đoạn cụ phải đi mần để phụ tía má. Ruộng nhỏ không vắt hết sức trai, những ngày nông nhàn cụ theo cánh thợ mộc, thợ chạm trổ, vẽ tranh đi làm nhà cho người ta. Dân quê nghèo ít học vừa thương cụ như em út vừa quý cụ như ông thầy. Họ tận tâm truyền nghề cho cụ.

Lúc rảnh rỗi cụ lại dạy chữ cho họ. Ấy thế mà cụ nên nghề. Cái khiếu của cụ không chỉ làm cho tía má, cánh thợ xóm làng ngạc nhiên mà nhiều địa chủ, phủ quan, chùa chiền ở xa nghe đồn cũng đến tận nơi mời về làm cho mình. Cụ đi xa suốt, lúc thì ở Sài Gòn, khi thì miệt Cần Thơ, Bạc Liêu, thậm chí cả Nam Vang.

Cụ vẽ tranh thủy mặc, khắc câu liễn Nho, nhưng "ngón ruột" của cụ là tạc tượng. Những pho tượng không đa dạng, cầu kỳ như bây giờ mà chỉ là Phật bà, ông Tiên, con công, con hổ … đặt ở gian thờ cúng hay trước sân nhà, ngoài mồ mả tổ tiên.

"Đám bạn bận xưa cũng hay hỏi ta mần sao mà nhiều người mê tài nghệ vậy. Ta nói thiệt bụng có gì đâu. Ta chỉ ráng quậy quọ vẽ bụi tre ra bụi tre, con gà ra con gà thôi…". Nhưng thời ấy nước khổ, dân nghèo, tay nghề của cụ cũng chả tung tác được bao nhiêu. Về sau, cụ còn học thêm nghề lái xe từ ông Ba Nghệ ở Sài Gòn để được rong ruổi khắp nơi.

"Chữ nghĩa giúp ta biết kiềm chế, giữ mình. Còn ông Ba Nghệ lại giúp ta biết cuộc sống thực với cả người hiền lẫn người lưu manh. Nếu không có ổng, có lẽ ta không thể sống nổi đến ngày hôm nay".

Cuộc đời lang thang giúp cụ thấy và nghe được bao nỗi niềm của thiên hạ. Những mảnh đời nghèo đói, khổ đau lay lắt khắp xóm làng thành thị lúc bấy giờ khiến cụ nhiều đêm mất ngủ. Số phận và hoàn cảnh riêng không đưa đẩy cụ vào con đường như một số chí sĩ có hoài bão lớn cùng thời. Nhưng nó cũng thôi thúc cụ rẽ thêm vào một nghề như hầu hết các bậc nho sĩ xưa hay làm là học thuốc cứu người.

Cụ học làm thuốc bắc, thuốc nam. Cụ biết chữa nhiều bệnh, và cụ rành nhất là các bài thuốc chữa ung nhọt, khối u. Hầu hết những người tìm đến cụ đã lành bệnh, mặc dù cụ chỉ nhận mình là người học lóm, "bà con qua được là nhờ may thầy may thuốc mà thôi".

Tiếng đồn xa. Người bệnh quê mùa tứ xứ đến cầu cứu cụ... Nghề thuốc tay trái gặp cơ duyên trở thành tay phải. Mặc dù 10 người cụ chữa thì đến 7-8 người được miễn phí hoàn toàn. Bây giờ mắt cụ mờ, tay chân cụ run rẩy lắm rồi mà vẫn còn nhiều người tìm đến.

Về già, cụ sống bình lặng tại căn nhà của tía má để lại ở thị xã Gò Công. Nhà ba gian, mái ngói, rộng khoảng 60m2, đầy những bảng chữ Nho, tranh, tượng, lọ bình cũ kỹ. Muốn vào nhà cụ phải đi qua một con đường rợp tán dừa giữa đồng lúa xanh. Ngoài làm thuốc, cụ có hai thú vui điền viên là chăm sóc vườn cây kiểng và kể chuyện xưa cho mọi người nghe.

Đó là những câu chuyện về Tần Thủy Hoàng bạo chúa, Nguyễn Huệ anh hùng, Napoleon chinh phạt châu Âu... Những câu chuyện thường được mở đầu và kết thúc bằng hai câu thơ: "Làm vua chẳng biết thương dân. Phải mang nặng tiếng, dầm xương ngoài đồng"…

Di chúc cuối cùng

"Vậy là bây cũng lại hỏi ta cái câu mà bao nhiêu người xưa nay đã từng hỏi ta…". Cụ phào phào trả lời câu hỏi "sống thọ quá bách niên như vậy, thiệt lòng cụ có sợ chết không?". Cụ kể rằng cụ lấy vợ năm 30 tuổi và ngay cuối năm ấy cụ đã đóng cho vợ chồng hai cái quan tài để ở chái nhà sau. Không phải cụ sợ chết ngay lúc ấy mà chỉ vì nhà có gỗ sẵn, khỏi để con cháu tốn kém. "Một cái thì bà lão nhà ta đã mang đi cách đây 22 năm. Còn một cái vẫn đang chờ ta …".

Cụ bảo thường ở đời, khi đến tuổi 60-70 người ta hay sợ chết! Lên tuổi 80-90, người ta lại canh cánh chờ đợi cái chết đến. Nhưng nếu qua được tuổi 100, chẳng mấy ai còn nặng lòng cả sự sống và cái chết. "Nó đến ngay cũng được. Mà nó chưa thèm đến cũng được. Chả sao cả!".

Cụ kể những năm gần đến tuổi 100 cụ cũng có cảm giác cô đơn, nhưng sau đó nó lại nhẹ nhàng qua đi tự nhiên. Cụ có hai con gái, một người 84 tuổi, một người 82 tuổi, chắt, chít đầy nhà. Đời cụ nhìn lại lúc nhỏ thì cố học, lúc trẻ thì cố làm, về già lại muốn có một cái gì đó để lại. "Nhưng rồi cuối cùng ta cũng chả để lại được cái gì đâu!".

Lần đầu, trong di chúc của mình cụ để lại cho cháu con tài sản dành dụm cả đời. Lần hai, khi tuổi đã quá già, cụ để lại những lẽ sống ở đời: cách đối xử với vợ con, anh em, hàng xóm, với quê hương, sông núi. "Tài sản của ta có là cái gì với sắp nhỏ bây giờ. Chúng có nhà gạch, xe máy, truyền hình, tủ lớn, tủ nhỏ… Vậy là ta nghĩ mình chỉ còn kinh nghiệm sống để lại cho chúng. Hi vọng mai này chúng hành xử cho đúng với đạo đời !".

Cụ kể tích xưa, chuyện nay. Cụ viết thành sách, khắc liễn, làm câu đối "tình phu thê", "nghĩa huynh đệ", "õn sinh thành" … treo ngay cửa ra vào như những bức gương cho con cháu soi mình!

"Những năm gần đây ta như người ngồi bên đường, nhìn ngắm thiên hạ ngược xuôi, tự dưng cứ trăn trở mãi một điều". Cuối cùng cụ gạt tất cả, chỉ để lại duy nhất một chữ "THƯƠNG" trong di chúc cuối cùng. Cái chữ mà cụ đã sống với nó qua ba thế kỷ mới "ngộ" ra. Người ta chỉ cần có một chữ "thương" trong lòng là đã đủ để đứng thẳng mà làm người...

"Mấy ông bác sĩ cứ đến hỏi ta có bí quyết gì mà sống thọ dữ vậy? Rồi họ săm soi mãi cái chuyện ta ăn gì, uống gì, ngủ nghỉ ra sao. Ta nói rằng ta cũng như mọi người bình thường thôi. Đói thì ăn, khát thì uống. Phận người dài bao nhiêu mà thèm khát nhiều hay kiêng cữ làm chi cho mắc khổ. Chỉ có điều ta chọn chữ thương, không hay ghét giận nên lòng ta nhẹ, ít nặng bệnh như người đời".

Tuoitre

Trăm năm danh tiếng tủ thờ

Lão nghệ nhân Ngô Tấn Đức đang kiểm tra lần cuối chiếc tủ thờ chuẩn bị xuất xưởng

TTCN - Cuối năm, bạn tôi dời nhà mới. Việc đầu tiên là anh thuê xe xuống tận "xóm tủ thờ" Gò Công mua một cái tủ thờ trị giá bằng một chiếc xe gắn máy xịn về đặt trang trọng giữa nhà. Chiếc tủ gỗ bóng dợn, sáng lóng lánh như một tác phẩm nghệ thuật.

Đó chỉ là một xóm nhỏ chừng vài chục nóc nhà nằm ngay cạnh quốc lộ 50 (Mỹ Tho, Gò Công, TP.HCM) thuộc địa phận xã Tân Trung, huyện Gò Công Đông, Tiền Giang. Cái tên xóm cũng lạ lùng: xóm Ông Non. Chẳng ai còn nhớ rõ vì sao nơi này có tên đó và ông Non là ai. Dọc hai bên quốc lộ 50 nhiều trại đóng tủ mọc lên san sát.

Chú Ngô Tấn Đức, một lão làng ở xóm, cho tôi biết mấy năm trước ngoài quốc lộ chẳng có một trại tủ nào mà tất cả đều nằm trong một con đường đá đỏ sâu hút. Bây giờ kinh tế thị trường nên các cơ sở sản xuất tủ thờ thi nhau dời ra mặt tiền quốc lộ để tiện bề làm ăn. Chú Đức là một tay thợ đóng tủ thờ chân truyền cừ khôi nhất vùng và hiện có trong tay bảy trại sản xuất tủ.

“Chính ông nội tôi là người đóng chiếc tủ thờ đầu tiên, khai sinh ra làng nghề. Bây giờ chiếc tủ đó vẫn còn, nó hơn 100 năm tuổi và được tặng cho ngôi chùa trong vùng lưu giữ”. Ông nội chú Đức chí thú nghề nông nhưng biết đôi chút nghề mộc. “Hồi đó cây gỗ không có, ông “hi sinh” mấy bộ ván gõ (tài sản quí giá nhất trong nhà) để đóng hai chiếc tủ, mặc cho gia đình can ngăn thế nào cũng không được. Hai chiếc tủ thờ đầu tiên nhỏ xíu và hết sức đơn giản, chẳng có chạm, cẩn, đánh vecni sáng choang như hiện nay nhưng từ đó làng đóng tủ thờ xóm Ông Non ra đời và truyền hết đời này đến đời nọ, truyền từ trong nhà ra hàng xóm, gầy dựng nên danh tiếng tủ thờ Gò Công”.

Chú Đức mãn nguyện: “Tôi năm nay 64 tuổi, tự mình đóng hoàn chỉnh chiếc tủ đầu tiên lúc 19 tuổi, cho đến bây giờ không thể nhớ nổi đã tự tay đóng được bao nhiêu chiếc tủ thờ. Điều làm tôi ưng ý nhất hiện nay là nghề đóng tủ thờ của xóm Ông Non đã nức tiếng gần xa, cả xóm có đến 25 gia đình chuyên đóng tủ thờ với mấy chục cơ sở sản xuất, giải quyết công ăn việc làm cho 300-400 lao động và thành lập được một nghiệp đoàn của làng nghề. Càng ngày lớp trẻ càng cải tiến kỹ thuật đóng tủ khiến chiếc tủ thờ bây giờ nhìn vào giống như một tác phẩm đậm chất văn hóa”.

Kiệt tác từ gỗ - xà cừ

Một bộ tủ thờ Gò Công hoàn chỉnh trị giá gần 20 triệu đồng

Theo chân chú Đức vào xưởng sản xuất tủ thờ, tôi được chiêm ngưỡng những chiếc tủ đóng bằng các loại danh mộc như gõ, mun, cẩm lai… bóng lộn, lấp lánh hình ảnh tứ linh (long, lân, qui, phụng), các tích xưa ( nhị thập tứ hiếu, bát tiên quá hải...), phong cảnh non sông, tứ quí (mai, lan, cúc, trúc), song long tranh châu, long - phụng... được cẩn, khảm bằng vỏ ốc và xà cừ.

Ngô Tấn Ngọc, con trai chú Đức, 35 tuổi, giảng giải: chiếc tủ thờ Gò Công bao gồm 16 chi tiết và phải mất năm kíp thợ riêng biệt (cưa, mộc, cẩn, tiện, sơn) ráp thành. Hồi trước một người đóng một chiếc tủ hoàn chỉnh mất ba tháng. Bây giờ nhờ máy móc và sản xuất theo dây chuyền nên chỉ 10 ngày là xong một chiếc tủ. Điều đặc biệt nhất của chiếc tủ thờ Gò Công so với tủ của những vùng khác là các mối nối đều sử dụng mộng, chốt để ráp lại vừa khít chứ không hề có cây đinh sắt nào. Giá trị của tủ thờ nằm ở các chi tiết như trụ (những thanh trang trí thẳng đứng được làm hoàn toàn bằng gỗ mun, chạm cẩn tinh vi), ốc, xà cừ và chất liệu gỗ.

Theo Ngọc, chiếc tủ thờ càng có nhiều trụ thì giá trị càng cao bởi các kíp thợ phải sử dụng nhiều gỗ quí và xà cừ. Một chiếc tủ hoàn chỉnh có 21 trụ toàn gỗ quí (thân tủ bằng gõ, trụ bằng mun, chân quì bằng cẩm lai cẩn ốc - xà cừ sáng lóng lánh) giá 27 triệu đồng. Tủ rẻ nhất giá 3,5 triệu đồng nhưng chất liệu đóng tủ là loại thường.

Ngoài những loại tủ thường thường bậc trung 5-10 triệu đồng/chiếc sản xuất đại trà, những chiếc tủ danh giá nhất làng nghề đều được sản xuất theo đơn đặt hàng riêng. Khách hàng lớn nhất của xóm tủ thờ Ông Non là Đông Nam bộ, TP.HCM và các tỉnh ĐBSCL. Sản phẩm tủ thờ Gò Công bây giờ không còn nằm khiêm tốn trong những căn nhà ngói của mấy anh hai lúa mà đã nghiễm nhiên “ngự” trong những phòng khách sang trọng của những danh gia, vọng tộc ở các đô thị lớn. Nhiều năm trước, tủ thờ Gò Công đã từng được mang ra tham dự hội chợ ở Hà Nội và hiện nay tại Sở Công nghiệp Tiền Giang chiếc tủ thờ Gò Công vẫn được trưng bày ở gian triển lãm. Chính vì vậy, để bảo vệ danh tiếng đặc sản quê hương, thợ cẩn ốc - xà cừ vẫn kỳ công ngồi hàng giờ để chỉnh sửa từng chi tiết, o bế từng nét vẽ phác thảo, từng đường đục, cưa lộng, cẩn, mài… cho đến khi nào thật sự ưng ý mới thôi.

Thăng trầm làng tủ

Khảm ốc xà cừ, một công đoạn đòi hỏi tính kiên nhẫn, tỉ mẩn và hết sức chính xác của người thợ

Đi suốt dọc xóm Ông Non, tới đâu tôi cũng nghe tiếng máy cưa, máy tiện chạy ro ro, mùi sơn, mùi vecni thơm nồng. Bên những chiếc tủ thờ thành phẩm đủ mọi “thứ hạng” đang chờ xuất xưởng, anh Ngô Tấn Ngọc cho tôi biết hiện nay mỗi cơ sở sản xuất tủ thờ có thể tung ra thị trường 120 chiếc/năm và hàng làm không kịp bán. Riêng chú Đức mấy ngày nay xách xe chạy ngược chạy xuôi hết huyện đến tỉnh để làm thủ tục đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa “tủ thờ Gò Công - Ba Đức”.

Bây giờ ở xứ Gò Công ai cũng nói rằng xóm tủ thờ Ông Non đang được thời làm ăn khấm khá mặc dù các loại nguyên liệu ngày càng hiếm hoi và đắt đỏ. Mấy năm nay xóm tủ thờ phải nhờ “đường dây” mua gỗ nhập khẩu từ Lào, Campuchia để hoạt động bởi nguồn gỗ quí trong nước hầu như cạn kiệt.

Căng thẳng và lao đao nhất đối với làng nghề này là hồi thập niên 1980 - 1990 dù nguồn gỗ nguyên liệu, ốc - xà cừ hết sức dồi dào, giá rẻ. Hồi ấy tủ làm ra không ai thèm mua, thợ thầy bỏ nghề, bỏ xứ đi kiếm ăn tứ tán. Cuối cùng tỉnh Tiền Giang cũng nhận ra đây là một “đặc sản văn hóa” của xứ Gò Công nên tạo mọi điều kiện cho dân xóm Ông Non khôi phục làng nghề. Xóm Ông Non hồi sinh, thợ thầy lục tục kéo về.

Cuối năm 1999, Công đoàn tủ thờ ra đời như một “nhãn hiệu cầu chứng” cho những người thợ tủ. Sau đó không lâu, nghiệp đoàn của những người thợ đóng tủ thờ được thành lập tiếp và mới đây lại có thông tin rằng UBND tỉnh Tiền Giang sẽ chính thức thành lập “làng nghề tủ thờ Gò Công”. Lão nghệ nhân Ngô Tấn Đức không giấu niềm vui: “Bao nhiêu năm nay những người thợ đóng tủ chúng tôi chỉ mong chờ có bấy nhiêu đó. Được công nhận làng nghề, tay nghề là mãn nguyện rồi”.

Tượng đài Trương Định ban đêm

Nhan sắc Gò Công


Đó là vùng đất hiền hòa lặng lẽ nơi miền cửa biển với những ngôi nhà cổ, dinh thự xưa và bóng dáng thiếu nữ hoài nét duyên xưa. Nhưng đất Gò Công trầm mặc lại là nơi có nhiều đệ nhất phu nhân, hoàng hậu ở miền Nam nước Việt...

Vùng đất hai hoàng hậu

Nhà sử học Nguyễn Phước Nghiệp (Trường ĐH Tiền Giang) cho biết xứ Gò Công tuy nhỏ, đất đai không trù phú nhưng lại sản sinh nhiều bậc phu nhân hương sắc, đức tài. Cả miền Nam thời triều Nguyễn có ba người đẹp được tiến cung và sau đó trở thành hoàng hậu thì đất Gò Công chiếm đến hai. Một là bà Phạm Thị Hằng - thái hậu Từ Dũ và hai là bà Nguyễn Hữu Thị Lan - Nam Phương hoàng hậu.

gocong1.jpg

Thái hậu Từ Dũ sinh năm 1810 tại giồng Sơn Qui, nay thuộc xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Bà là ái nữ của thượng thư bộ lễ Phạm Đăng Hưng. Thuở nhỏ rất xinh đẹp, thông minh, giỏi cầm, kỳ, thi, họa.

Ông Phạm Đăng Được - cháu nội bảy đời của ông Phạm Đăng Hưng, hiện đang ở khu phố 2, Hòa Thôn, thị trấn Tân Hòa, huyện Gò Công Đông - nói: “Đức Từ Dũ rất đẹp, mới 14 tuổi bà đã được tiến cung và trở thành vợ của hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông. Năm 1841, khi hoàng tử lên ngôi vua lấy đế hiệu là Thiệu Trị, bà được tấn phong là hoàng phi. Bà là mẹ hoàng tử Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, sau này là vua Tự Đức. Vốn là người thông tuệ, bà rất chú trọng đến việc giáo dục vua con, nhất là đạo làm vua, đạo làm người. Những lời răn dạy của bà được nhà vua ghi chép thành một cuốn sách, gọi là Từ huấn lục”.

gocong2.jpg

Người đẹp Gò Công Nguyễn Hữu Thị Lan - Nam Phương hoàng hậu - Ảnh tư liệu

Hoàng hậu thứ hai của đất Gò là Nam Phương hoàng hậu. Trước khi trở thành đệ nhất phu nhân của hoàng đế Bảo Đại vào năm 1934, bà đã ba năm liền trúng giải hoa hậu Đông Dương. Nam Phương hoàng hậu sinh năm 1914, ở làng Đồng Sơn, nay là xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Bà là người có nhân cách và nổi tiếng về đức độ.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), bà vẫn sinh sống ở Huế. Hưởng ứng “Tuần lễ vàng” do Chính phủ cách mạng non trẻ phát động, bà đã đến cơ quan chính quyền cách mạng tỉnh Thừa Thiên tự nguyện hiến toàn bộ nữ trang để góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ nền độc lập của đất nước vừa mới ra đời.

Hành động đáng quí và gương mẫu của bà đã tác động tích cực đến tinh thần hăng hái đóng góp của người dân Huế nói riêng và của nhân dân cả nước nói chung.

Cô Tấm ngày nay

Trần Thị Kim Uyên, 23 tuổi, gương mặt tròn, miệng cười tươi, dáng mảnh mai, vừa đăng quang giải nhất hội thi “Cô Tấm ngày nay năm 2006”. Hội thi được tỉnh tổ chức hằng năm, với hàng trăm thôn nữ tham gia sơ tuyển từ 39 khóm, ấp trong thị xã Gò Công.

gocong3.jpg

Người đẹp Trần Thị Thu Trang bình dị cùng các chị, các má trên đường ra đồng - Ảnh: Quang Vinh

Để trở thành “cô Tấm ngày nay”, các thôn nữ Gò Công phải hương sắc và đức hạnh vẹn toàn. Uyên không nói nhiều về mình, chỉ thỏ thẻ: “Xóm em còn nhiều chị đẹp hơn em nhiều, sinh một hai con rồi mà vẫn đẹp như hoa hậu”.

Những người đẹp Gò Công không cao xa, lộng lẫy. Đó là cô thôn nữ quanh năm sống với ruộng đồng Trần Thị Thu Trang - giải nhất “Người đẹp Gò Công năm 2003”, Trần Ngọc Điểm với giải “Cô Tấm có giọng hát hay năm 2006”, cô giáo tổng phụ trách Đội Trường tiểu học Long Thuận Trần Hoàng Trang - á hậu “Người đẹp Gò Công năm 2003”...

Ấp Long Phước có 264 phụ nữ thì đã có trên 30 thôn nữ đoạt được các danh hiệu nhan sắc Gò Công. Họ không kiêu kỳ, không nói những câu cao xa, lạ lẫm với sự bình dị của làng quê mà mộc mạc chân thành.

Người đẹp Gò Công Nguyễn Phong Lan - giải “Áo dài duyên dáng tỉnh Tiền Giang năm 2000”, giải nhì “Cô Tấm ngày nay năm 2006” - hiện đang là giáo viên THCS ở thị xã Gò Công. Phong Lan ít nói về nhan sắc, mà thường nhắc đến câu chuyện ơn nghĩa sinh thành: “Đến bây giờ em cũng chưa biết cha mẹ ruột của mình là ai. Mẹ em bây giờ là một nữ hộ sinh của bệnh viện huyện, thấy em bị bỏ rơi đã đem về nuôi. Em được chăm sóc trong tình yêu thương còn hơn cả mẹ ruột, mọi người khen em đẹp không đúng đâu, mẹ em mới là người đẹp nhất”.

gocong4.jpg

Người đẹp Phong Lan - cô giáo THCS ở thị xã Gò Công - Ảnh: Quang Vinh

Đất Gò Công đã chuộng và tôn vinh sắc đẹp từ rất lâu. Ở Tăng Hòa (Gò Công Đông) hiện vẫn còn một ngôi mộ khắc ghi phần mộ của “hoa hậu tỉnh Gò Công” - bà Nguyễn Thanh Tùng (1919-1951).

Ông Nguyễn Văn Chín, em của “hoa hậu Gò Công”, cho biết ngày trước các quan lại trong vùng vẫn thường tổ chức hội thi hoa hậu người đẹp, còn gọi là “hội thi đấu sắc đẹp”, người của làng đến từng nhà tuyển mộ người đẹp đại diện cho làng ra tỉnh thi.

Làng của ông Chín đã may mắn đoạt hai giải nhất, nhì hoa hậu tỉnh Gò Công.