Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bà là người con gái đất Gò Công, lúc ban đầu vào Huế làm cung nữ hầu vua Thiệu Trị. Nhà vua ngự giá Bắc tuần, nàng theo giúp việc hàn mặc, nổi tiếng thông minh và linh hoạt. Sau đó nàng được phong cấp lên Hoàng hậu, rồi Hoàng thái hậu, sau cùng là Thái Hoàng Thái hậu. Nghe nói bà Từ Dũ còn là người đưa giống cá thát lát từ quê nhà ở Nam bộ ra gây giống ở thành phố Huế; cá sinh sôi đến ngày nay đầy hồ đầy sông.
-Ông tướng trong ấy có đủ tài đủ phép, muốn làm gì thì làm, cớ chi còn bắt Phàn Lê Huê phải "tru huynh diệt phụ". Đó là đại tội bất hiếu bất đễ, ông không biết sao?
Viên đội trưởng sợ quá, thanh minh:
-Dạ bẩm, đó là bản tuồng do người Tàu viết ra. Họ viết sao, con cứ thế đem diễn lại.
-Người Tàu khác, người mình khác. Những chuyện đại nghịch như vậy, lần sau cấm diễn trên sân khấu.
Thái hậu bèn truyền lấy bản chính của vở tuồng chuyển cho vua Tự Đức đọc để chữa lại những chỗ trái đạo. Vua Tự Đức lo xa, bèn cho thu hồi hết mọi bản tuồng lưu hành trong dân gian về sửa chữa cẩn thận trước khi phân phối lại bản thảo cho các đoàn tuồng không biết, vẫn cứ tiếp tục diễn những kịch bản chưa được vua phê duyệt. Vì thế trong giới hát tuồng mới nảy sinh vấn đề phân biệt "Bản Kinh" và "Bản Tuồng" như ta đã biết. Dù sao, tên tuổi của Thái hậu Từ Dũ vẫn nổi lên như một gương sáng "bảo vệ văn hoá dân tộc", dẫu phải chống lại thứ văn hoá của một lân quốc mà từ trước đến nay các vua chúa ta đều chịu ảnh hưởng.
Hồi ấy người Pháp cho bắc lại cây cầu Trường Tiền bằng sắt và bắt dân phải nộp thêm thuế, nói là lấy kinh phí làm cầu. Bà Từ Dũ tự nguyện thay mặt cho dân viết một lá đơn xin quan Tây miễn thuế. Viên khâm sứ Pháp lúc bấy giờ muốn chứng tỏ là ta cũng làu thông tiếng Việt, bèn phê vào đơn bằng mấy câu vè, đại thể:
...Ngày xưa vua Việt cầm quyền
Sao không bắc lấy cầu Trường Tiền mà qua?
Trách Tây hay đặt phép ra
Cầu Trường Tiền Tây Bắc, tây không qua một mình...
Trước đây, dân Huế có lưu hành bài vè "Bà Từ Dũ xin thuế cho dân". Nhân đức của bà đã đi vào lòng người là vậy. Còn thành phố Sài Gòn- một thành phố nhượng địa của Pháp, cũng có một nhà hộ sinh lớn mang tên bà; ở Gò Công thì lại có "khu lăng mộ Hoàng gia", gồm có mộ của ông Phạm Đăng Hưng là thân sinh của bà và nhà thờ họ Phạm, tức là họ của bà Từ Dũ. Tôi có đến thắp hương tại khu lăng mộ Hoàng gia ở Gò Công Đông, thấy hầu hết các em gái đều mặc áo dài trắng, còn lại là đồng phục chỉnh tề chắc là học sinh của một nhà trường nào đó cũng đến thắp hương. Lòng tôi dạt dào niềm biết ơn Thái hậu Từ Dũ, người con gái quê Nam Bộ, lại ra tận Huế làm dâu, dám quên mình là bậc "mẫu nghi thiên hạ", cúi mình đi xin thuế cho dân. Chỉ việc đó, thiết tưởng Thái hậu Từ Dũ cũng đáng được ghi tạc vào tượng đồng bia đá, lưu một tiếng thơm là "gái nước Việt" để lại cho muôn đời sau.
Huế nguyên xưa là đất kinh đô nước Việt, nên những người tài giỏi trong nước tập trung về đấy nhiều lắm; chỉ nói riêng về danh nhân phái nam đáng dựng tượng cũng không kể xiết. Dĩ nhiên không thể nào thiếu tượng của vua Quang Trung, của Hồ Chủ tịch và cụ Phan Bội Châu. Nhưng ở đây chỉ bàn về tượng của phái nữ trong năm nhân vật tiêu biểu nhất đã từng dựng nghiệp trên đất Huế.
Ôi! một dòng sông như sông Hương mà không có những tượng đài, khác chi một con người đã quên mất gốc rễ, một thành phố không có ký ức...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét